Wednesday, November 11, 2015

Kinh Thủ Lăng Nghiêm - 50 Hiện Tượng Ấm Ma (2)

Kinh Thủ Lăng Nghiêm - 50 Hiện Tượng Ấm Ma (2)

 KINH ĐẠI PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM - Quyển 10

- Ma Sự (tiếp theo)
- Năm Ấm Là Năm Vọng Tưởng
- Kết Luận: Lợi Ích Lớn Lao của Kinh Này

– Này A Nan! Hành giả kia tu định, khi tưởng ấm đã hết, thì lúc thức luôn tỉnh giác, lúc ngủ không mộng mị, tức là những mộng tưởng trong đời sống bình thường của vị ấy đều đã tiêu diệt. Tánh bản giác diệu minh rỗng lặng như hư không trong sáng; không còn những bóng ảnh của tiền trần thô trọng; xem núi sông đất liền trong thế gian như gương soi sáng, đến không dính vào đâu, đi không lưu dấu vết, chẳng qua có cảnh thì có bóng hiện, cảnh mất thì trống không, hoàn toàn không còn tập khí cũ, duy nhất chỉ có một tánh tinh chân. Căn nguyên của mọi hiện tượng sinh diệt, từ đây phô bày trước mắt, hành giả thấy được rõ ràng tướng sinh diệt từng loài của mười hai loài chúng sinh trong mười phương. Dù vậy, hành giả vẫn chưa thấu suốt được nguyên do đầu mối sự thọ sinh của mỗi loài chúng sinh, mà chỉ mới thấy được cái cơ sở sinh diệt chung, giống như bóng dã mã, lăng xăng nhấp nhoáng, thoạt hiện thoạt mất, làm then chốt cho sự sinh diệt của thân căn và các trần; đó là hành giả còn bị hành ấm hạn chế ngăn che.

Nếu thể tánh căn nguyên của những hình bóng lăng xăng nhấp nhoáng kia, do định lực thâm sâu mà nhập vào cảnh giới trong lặng bản lai, thì tất cả những tập khí bản nguyên đều lắng trong hết, như gió lặng sóng êm thì hồ nước hoàn toàn đứng lặng. Như thế là hành ấm đã hết, người tu hành bấy giờ mới có thể vượt khỏi chúng sinh trược. Như vậy, xét kĩ lại nguyên do của hành ấm, thì gốc rễ chính là vọng tưởng u ẩn.

Này A Nan! Thầy nên biết, hành giả kia ở trong thiền định có được chánh tri kiến, chánh tâm lắng đọng sáng suốt, mười loại thiên ma không còn cơ hội quấy phá; bấy giờ mới tinh chuyên nghiên cứu cùng tột căn nguyên sinh diệt của các loài chúng sinh. Khi căn nguyên sinh diệt ấy hiển lộ ra, hành giả xem thấy cái đầu mối sinh diệt máy động lăng xăng nhấp nhoáng của khắp các loài; từ đó lại khởi
tâm so đo cân nhắc, cho đó là tánh bản nguyên của mọi loài, liền rơi vào hai loại luận thuyết chủ trương “vô nhân” sau đây:

Một là, hành giả thấy nguồn gốc của chúng sinh không có nguyên nhân. Tại sao vậy? Khi cái căn nguyên sinh diệt đã hiển lộ ra, hành giả nương theo tám trăm công đức của nhãn căn mà thấy được từ tám vạn kiếp trở lại đây, tất cả chúng sinh đều theo nghiệp lực mà xoay vần, chết chỗ này sinh chỗ nọ. Hành giả chỉ thấy được chúng sinh lẩn quẩn qua lại trong khoảng thời gian tám vạn kiếp đó, ngoài ra thì mù mịt không thấy gì; bèn nhận định rằng, chúng sinh khắp mười phương ở trong thế gian này, là tự có từ tám vạn kiếp đến nay, trước đó không có nguyên nhân. Do sự so đo suy xét này mà tự mình làm mất chánh biến tri, sa vào tà kiến ngoại đạo, mê loạn tánh bồ đề.

Hai là, hành giả thấy chỗ cuối cùng của chúng sinh không có nguyên nhân. Tại sao vậy? Hành giả ấy đã thấy được căn nguyên của sinh diệt, biết rõ người thì sinh ra người, chim thì sinh ra chim, loài quạ xưa nay vẫn đen, loài cò xưa nay vẫn trắng, người và trời thì thân vốn đứng thẳng lên, súc sinh thì thân vốn nằm ngang, màu trắng không phải do tẩy mà thành, màu đen không phải do nhuộm mà nên; từ tám vạn kiếp đến nay vẫn như thế, không bao giờ thay đổi, nay hết đời này cũng lại như vậy. Từ đó mà suy diễn rằng: Ta xưa nay vốn chẳng thấy bồ đề, chẳng lẽ bây giờ lại thành đạo bồ đề ư? Rồi kết luận rằng, tất cả mọi sự vật hiện tượng hôm nay đều không có nguyên nhân! Do sự so đo suy xét đó mà tự mình làm mất chánh biến tri, rơi vào tà kiến ngoại đạo, mê loạn tánh bồ đề. Đó là loại ngoại đạo thứ nhất chủ trương “vô nhân luận”.

Này A Nan! Hành giả kia ở trong thiền định, chánh tâm đứng lặng sáng suốt, thiên ma không còn cơ hội quấy phá, bèn suy cứu tận cùng nguồn gốc sinh diệt của các loài chúng sinh, xem thấy cái đầu mối sinh diệt lăng xăng nhấp nhoáng luôn luôn máy động không biến đổi; từ đó mà khởi sinh kiến chấp, cho rằng khắp tất cả là thường còn, liền rơi vào bốn loại luận thuyết chủ trương “biến thường”:

Một là, hành giả suy xét tận cùng bản tánh của tâm và cảnh, thấy cả hai đều không có nguyên nhân. Do tu tập mà biết được sự sinh diệt của mười phương chúng sinh, từ hai vạn kiếp đến nay vẫn sinh diệt tuần hoàn, tiếp nối không mất; bèn chấp cho đó là thường còn.

Hai là, hành giả suy xét tận cùng nguồn gốc của bốn đại, thấy tánh của chúng là thường trụ. Do tu tập

mà biết được sự sinh diệt của mười phương chúng sinh, từ bốn vạn kiếp đến nay thể tánh vẫn thường hằng, không hề tan mất; bèn chấp cho đó là thường còn.

Ba là, hành giả suy xét tận cùng sáu căn sáu thức, thấy nguyên do căn bản và chỗ sinh khởi của thức thứ tám (tâm) chấp thọ, thức thứ bảy (ý) suy lường, và sáu thức trước (thức) phân biệt, tánh vẫn thường hằng. Do tu tập mà biết được tất cả chúng sinh từ tám vạn kiếp đến nay, tuy sống chết nhưng tuần hoàn không mất, bản lai vẫn thường trụ; xét tới cùng cái tánh tuần hoàn không mất đó mà chấp cho là thường còn.

Bốn là, hành giả đã hết căn nguyên của tưởng ấm, nguồn cội của sinh diệt không còn, sự trôi chảy xoay vần dừng lặng, tâm tưởng sinh diệt nay đã vĩnh viễn tiêu diệt, trong lí lẽ tự nhiên trở thành không sinh diệt. Do tâm so đo suy xét nên chấp cho hành ấm là thường.

Do những kiến chấp thường còn như trên mà hành giả tự đánh mất chánh biến tri, rơi vào tà kiến ngoại đạo, mê loạn tánh bồ đề. Đó là loại ngoại đạo thứ nhì, chủ trương “viên thường luận”.

Lại nữa, hành giả kia ở trong thiền định, chánh tâm đứng lặng vững vàng, thiên ma không có cơ hội

quấy phá, bèn suy cứu tận cùng cội gốc sinh diệt của mọi loài chúng sinh, xem thấy cái cội gốc u ẩn kia luôn luôn máy động; từ đó khởi tâm suy lường cân nhắc giữa mình và các pháp khác, bèn rơi vào bốn loại kiến chấp điên đảo, chủ trương “một phần thường, một phần vô thường”:

Một là, hành giả kia quán sát thấy tâm trong lặng sáng suốt mầu nhiệm của mình biến khắp mười phương thế giới, cho đó là thần ngã cao tột; bèn khởi sinh kiến chấp, cho ta là cùng khắp mười phương, đứng lặng sáng suốt không lay động, còn tất cả chúng sinh thì đều ở trong tâm ta mà tự sinh tự diệt. Vậy tâm tánh ta là thường, và tất cả chúng sinh sinh diệt kia đúng thật là tánh vô thường.

Hai là, hành giả kia không quán xét tâm mình, lại quán xét hằng sa cõi nước trong khắp mười phương, thấy những chỗ kiếp hoại thì cho đó là chủng tánh rốt ráo vô thường, thấy những chỗ kiếp không hoại thì cho đó là rốt ráo thường.

Ba là, hành giả kia tự quán xét tâm mình, thấy nó tinh tế nhỏ nhiệm, giống như vi trần, lưu chuyển khắp mười phương mà tánh không biến đổi; nhưng lại có thể khiến cho thân này liền sinh liền diệt; bèn nhận định rằng: Cái tâm không biến đổi của ta là tánh thường, còn tất cả những thân sinh tử từ tâm ta lưu xuất ra là tánh vô thường.

Bốn là, hành giả kia biết tưởng ấm đã hết và thấy hành ấm đang trôi chảy, thì nhận định rằng: Hành ấm trôi chảy không ngừng, đó là tánh thường; còn các ấm sắc, thọ, và tưởng nay đã diệt mất hết, đó là tánh vô thường.

Do những kiến chấp một phần thường và một phần vô thường như trên mà hành giả bị rơi vào tà kiến ngoại đạo, mê loạn tánh bồ đề. Đó là loại ngoại đạo thứ ba, chủ trương “nhất phần thường luận”.

Lại nữa, hành giả kia ở trong thiền định, chánh tâm đứng lặng vững vàng, thiên ma không có cơ hội quấy phá, bèn suy cứu tận cùng cội gốc của mọi loài chúng sinh, xem thấy cái cội gốc u ẩn kia luôn luôn máy động; từ đó khởi tâm so đo cân nhắc về phần vị, hành giả bèn rơi vào bốn loại kiến chấp “hữu biên”:

Một là, hành giả kia suy xét lượng định, thấy hành ấm là căn nguyên sinh diệt của mọi loài chúng sinh, trong hiện tại nó trôi chảy tuần hoàn không ngưng nghỉ, bèn cho rằng: quá khứ và vị lai là hữu biên; còn cái tâm hiện tại tương tục là vô biên.

Hai là, hành giả kia quán xét trong tám vạn kiếp thì thấy có chúng sinh, còn trước tám vạn kiếp thì bặt tăm không nghe thấy gì; bèn nhận định rằng: cáikhoảng không nghe thấy gì ấy là vô biên; và cái khoảng có chúng sinh là hữu biên.

Ba là, hành giả kia cho rằng mình biết cùng khắp nên được cái tánh vô biên; còn tất cả mọi người khác đều hiện ra trong cái biết của mình, mà mình không hề biết cái tánh biết của họ, cho nên họ không được cái tánh vô biên, mà chỉ có tánh hữu biên.

Bốn là, hành giả kia ở trong định suy cứu đến cùng thì thấy hành ấm đã diệt, nhưng khi xuất định thì thấy hành ấm lại sinh; bèn theo sự thấy biết ấy của mình mà suy lường, nhận định rằng: trong một thân của tất cả chúng sinh đều có một nửa sinh và một nửa diệt; và suy rộng ra tất cả mọi vật tượng có trong thế giới, đều một nửa là hữu biên, một nửa là vô biên.

Do những kiến chấp hữu biên và vô biên như trên mà hành giả bị rơi vào tà kiến ngoại đạo, mê loạn tánh bồ đề. Đó là loại ngoại đạo thứ tư, chủ trương “hữu biên luận”.

Lại nữa, hành giả kia ở trong thiền định, chánh tâm đứng lặng vững vàng, thiên ma không có cơ hội quấy phá, bèn suy cứu tận cùng cội gốc của mọi loài chúng sinh, xem thấy cái cội gốc u ẩn kia luôn luôn máy động; từ đó khởi tâm so đo suy lường về tri kiến, bèn rơi vào bốn thứ tà kiến đầy tính điên đảo, kiểu loạn bất tử, hư luận biến kế:

Một là, hành giả kia quán xét căn nguyên của sự biến hóa, thấy cái gì dời đổi lưu chuyển, gọi là “biến”; thấy cái gì tiếp nối liên tục, gọi là “thường”; thấy cái thấy được, gọi là “sinh”; không thấy được cái có thể thấy, gọi là “diệt”; cái gì mà nguyên nhân tương tục, không gián đoạn, gọi là “thêm”; chính trong cái tương tục mà ở giữa có chỗ gián đoạn, gọi là “bớt”; mọi vật sinh ra, gọi là “có”; mọi vật diệt mất, gọi là “không”. Dùng lí quán xét tất cả thì như vậy, nhưng vì hành giả dụng tâm rối loạn, mà thành ra các kiến chấp sai khác nhau. Bởi vậy, nếu có người cầu pháp đến hỏi nghĩa lí, hành giả liền trả lời: “Ta nay cũng sinh cũng diệt; cũng có cũng không; cũng thêm cũng bớt.” Lúc nào cũng nói năng lộn xộn bừa bãi như vậy, khiến cho người nghe không sao hiểu được.

Hai là, hành giả kia quán xét kĩ càng vạn loại, thấy nơi cái này không có cái kia, nơi cái kia không có cái này. Nhân cái thấy “không có” đó mà chấp cho rằng tất cả các pháp là không. Do đó, nếu có người đến hỏi đạo, hành giả ấy chỉ đáp một chữ “không” mà thôi; ngoài chữ “không” ấy ra, không nói gì khác.

Ba là, hành giả quán xét kĩ càng vạn loại, thấy mỗi mỗi đều có. Nhân cái thấy “có” đó mà chấp cho rằng tất cả các pháp là có. Do đó, nếu có người đến hỏi đạo, hành giả ấy chỉ đáp một chữ “có” mà thôi; ngoài chữ “có” ấy ra, không nói gì khác.

Bốn là, hành giả kia chấp vạn loại vừa có vừa không; cảnh đã chia hai thì tâm cũng rối loạn. Do đó, nếu có người đến hỏi đạo, hành giả ấy nói rằng: Cũng có tức là cũng không; trong cái “cũng không” chẳng phải là “cũng có”. Tất cả đều rối loạn, không thể nói hết được!

Do những kiến chấp hư ngụy, rối loạn, không thuận lí như trên mà hành giả bị rơi vào tà kiến ngoại đạo, mê loạn tánh bồ đề. Đó là loại ngoại đạo thứ năm, mắc phải bốn thứ tà kiến đầy “điên đảo, kiểu loạn bất tử, hư luận biến kế”.

Lại nữa, hành giả kia ở trong thiền định, chánh tâm đứng lặng vững vàng, thiên ma không có cơ hội quấy phá, bèn suy cứu tận cùng cội gốc của mọi loài chúng sinh, xem thấy cái cội gốc u ẩn kia luôn luôn máy động; từ đó khởi tâm so đo suy lường về dòng trôi chảy không ngừng, bèn rơi vào kiến chấp điên đảo, cho rằng “sau khi chết có tướng”.

Hoặc tự giữ chắc thân mình, bảo rằng “sắc là ta”. Hoặc thấy tánh ta tròn đầy, bao trùm khắp các quốc
độ, thì bảo rằng: “ta có sắc”. Hoặc thấy sắc ở trước mắt kia theo ta mà xoay trở về, ta vận dụng được, thì bảo rằng: “sắc thuộc về ta”. Hoặc thấy cái ta nương trong hành ấm mà thiên lưu tương tục, thì bảo rằng: “ta ở trong sắc”. Tất cả đều so đo suy lường mà chấp rằng “sau khi chết có tướng”; cứ theo cách luận về “sắc ấm” ở trên mà suy luận đến ba ấm thọ, tưởng và hành, thì sẽ có tất cả là mười sáu tướng.
Từ đó lại chấp rằng: phiền não rốt ráo là phiền não, bồ đề rốt ráo là bồ đề; hai tánh đó biệt lập, không thể chạm xúc nhau.

Do kiến chấp “sau khi chết có tướng” như trên mà hành giả bị rơi vào tà kiến ngoại đạo, mê loạn tánh bồ đề. Đó là loại ngoại đạo thứ sáu, lập ra luận thuyết điên đảo, chủ trương: “Năm ấm sau khi chết còn có tướng.”

Lại nữa, hành giả kia ở trong thiền định, chánh tâm đứng lặng vững vàng, thiên ma không có cơ hội quấy phá, bèn suy cứu tận cùng cội gốc của mọi loài chúng sinh, xem thấy cái cội gốc u ẩn kia luôn luôn máy động; từ đó khởi tâm so đo suy lường về sắc, thọ, tưởng đã trừ diệt ở trước, bèn rơi vào kiến chấp điên đảo: “sau khi chết không có tướng”.

Hành giả ấy thấy sắc ấm đã diệt thì hình hài không nhân đâu mà có; xét tưởng ấm diệt thì tâm không buộc vào đâu; biết thọ ấm diệt thì sắc và tâm không có chỗ nối liền. Tánh các ấm đó đã tiêu tan, dù có sinh lí mà không có thọ, tưởng, thì chẳng khác gì cây cỏ. Cái hình chất hiện tiền còn không thể nắm bắt được, huống hồ sau khi chết, làm sao lại còn có các tướng? Nhân đó mà xét nghiệm cái đã diệt, thì biết cái hiện tại chưa diệt; so sánh với tương lai, sau khi chết nhất định không có tướng. Xét chung cả bốn ấm sắc, thọ, tưởng, hành, mỗi ấm, trước khi sinh và sau khi chết đều không có tướng; như vậy, cả bốn ấm cộng chung có tất cả tám thứ vô tướng. Từ những lập luận đó mà hành giả kia xác quyết rằng: Niết Bàn, Nhân Quả chỉ là những danh từ suông, tất cả đều không có, rốt ráo qui về đoạn diệt!

Do kiến chấp “sau khi chết không có tướng” như trên mà hành giả bị rơi vào tà kiến ngoại đạo, mê loạn tánh bồ đề. Đó là loại ngoại đạo thứ bảy, lập ra luận thuyết điên đảo, chủ trương: “Năm ấm, sau khi chết không có tướng.”

Lại nữa, hành giả kia ở trong thiền định, chánh tâm đứng lặng vững vàng, thiên ma không có cơ hội quấy phá, bèn suy cứu tận cùng cội gốc của mọi loài chúng sinh, xem thấy cái cội gốc u ẩn kia luôn luôn máy động; từ đó khởi tâm so đo suy lường về chỗ hành ấm còn tồn tại và sắc thọ tưởng đã diệt, lại suy lường cả cái có và cái không, tự thể chúng đánh phá nhau, hành giả ấy bèn rơi vào loại luận thuyết điên đảo: “sau khi chết, có và không đều chẳng phải”.

Hành giả ấy, nơi ba ấm sắc, thọ, tưởng, thấy có mà chẳng phải có; nơi hành ấm đang trôi chảy, thấy không mà chẳng phải không. Dần dà như thế, suy xét cùng tận giới hạn của bốn ấm, thành ra tám thứ “chẳng phải có mà chẳng phải không”; bất luận là nêu lên một ấm nào để xét, đều nói “sau khi chết chẳng phải có tướng, chẳng phải không có tướng”.

Lại suy lường tới vạn pháp, thấy tánh của chúng biến thiên rối loạn, làm tăng trưởng tà tri tà kiến, cho rằng “có và không đều chẳng phải”, không biết căn cứ vào đâu để nói hư, nói thật.

Do kiến chấp “sau khi chết, có và không đều chẳng phải” như trên mà việc về sau tối tăm mù mịt, nói có cũng không đúng mà nói không cũng không ổn, hành giả bị rơi vào tà kiến ngoại đạo, mê loạn tánh bồ đề. Đó là loại ngoại đạo thứ tám, lập ra luận thuyết điên đảo, chủ trương: “Năm ấm sau khi chết có và không đều chẳng phải.”

Lại nữa, hành giả kia ở trong thiền định, chánh tâm đứng lặng vững vàng, thiên ma không có cơ hội quấy phá, bèn suy cứu tận cùng cội gốc của mọi loài chúng sinh, xem thấy cái cội gốc u ẩn kia luôn luôn máy động; từ đó khởi tâm so đo suy lường, chấp trước cho rằng “sau này là không”, hành giả ấy bèn rơi vào bảy loại luận thuyết “đoạn diệt”: hoặc cho rằng thân người là diệt; hoặc thân trời Lục-dục là diệt; hoặc cõi Sơ-thiền hết dục nhiễm là diệt; hoặc cõi Nhị-thiền hoàn toàn hết khổ là diệt; hoặc cõi Tam-thiền vui đến cùng cực là diệt; hoặc cõi Tứ-thiền xả bỏ hết hỉ lạc là diệt; hoặc cõi Tứ-không xả bỏ hết sắc chất chướng ngại là diệt. Như thế xoay vần, suy xét cùng cực bảy nơi, cho rằng thân hiện tiền chắc chắn qui về chỗ tiêu diệt, và tiêu diệt rồi thì sau không còn sinh lại nữa.

Do kiến chấp “sau khi chết là đoạn diệt” như trên mà hành giả bị rơi vào tà kiến ngoại đạo, mê loạn tánh bồ đề. Đó là loại ngoại đạo thứ chín, lập ra luận thuyết điên đảo, chủ trương: “Năm ấm, sau khi chết là đoạn diệt.”

Lại nữa, hành giả kia ở trong thiền định, chánh tâm đứng lặng vững vàng, thiên ma không có cơ hội quấy phá, bèn suy cứu tận cùng cội gốc của mọi loài chúng sinh, xem thấy cái cội gốc u ẩn kia luôn luôn máy động; từ đó khởi tâm so đo suy lường, chấp trước cho rằng “sau này còn có”, hành giả ấy bèn rơi vào năm loại luận thuyết “niết bàn hiện tại”: Hoặc cho sáu cõi trời Dục-giới là cảnh niết bàn hiện tại, vì xem thấy nơi đó ánh sáng biến khắp mà sinh tâm ái mộ; hoặc cho trời Sơ-thiền là niết bàn hiện tại, vì nơi đó lìa dục nhiễm, đầy hỉ lạc, không còn đau khổ; hoặc cho trời Nhị-thiền là niết bàn hiện tại, vì nơi đó do thiền định mà sinh hỉ lạc, không còn mọi thứ ưu sầu; hoặc cho trời Tam-thiền là niết bàn hiện tại, vì nơi đó vui đẹp cùng cực; hoặc cho trời Tứ-thiền là niết bàn hiện tại, vì nơi đó khổ vui đều dứt hết, không còn chịu sinh tử luân hồi. Như vậy là hành giả kia thật quá mê lầm, cho các cõi trời hữu lậu là niết bàn vô vi; cho năm chỗ kia là nơi an ổn, là cảnh giới tối thắng thanh tịnh. Cứ như thế, tuần tự quán xét từ dưới lên trên, mê lầm cho tất cả năm nơi kia đều là cực quả vô thượng!
Do chấp “năm cảnh giới niết bàn hiện tại” như trên mà hành giả bị rơi vào tà kiến ngoại đạo, mê loạn tánh bồ đề. Đó là loại ngoại đạo thứ mười, lập ra luận thuyết điên đảo, chủ trương: “Trong năm ấm có năm cảnh giới niết bàn hiện tại.”

Này A Nan! Mười thứ hiểu biết điên cuồng trong thiền định như thế, đều do hành ấm và tâm dụng công đoạn vọng hiển chân giao tranh nhau mà sinh ra. Chúng sinh ngu muội, ngoan cố, không tự xét tự lượng, gặp những tư tưởng ấy hiện ra thì nhầm lẫn không biết rõ, cho mình đã chứng quả thánh, thànhra mắc tội đại vọng ngữ, phải đọa địa ngục Vô-gián!

Sau khi Như Lai diệt độ, quí thầy nên y theo lời dạy này, tuyên bày nghĩa lí cho chúng sinh trong đời mạt pháp được tỏ ngộ; không để cho tâm ma tự gây nên những tội lỗi sâu nặng. Đó là cách giữ gìn chánh pháp, giúp cho người tu hành tiêu diệt tà kiến; giáo huấn cho họ khai mở tâm trí mà giác ngộ nghĩa lí chân thật đối với Đạo Vô Thượng, không lạc vào đường tà; chớ để họ vừa được chút ít đã cho là đủ, mà hãy nêu rõ cho họ thấy cái mục tiêu thanh tịnh để thành bậc Đại Giác.

Này A Nan! Hành giả kia tu định, khi hành ấm đã hết, thì tánh sinh diệt của vạn pháp, cái căn nguyên máy động lăng xăng nhấp nhoáng, cái then chốt chung sinh ra các loài chúng sinh trong thế gian, bỗng chốc đều tiêu tan hết. Cái giềng mối vi tế, cái nguồn mạch thâm trầm cảm ứng, đền trả túc nghiệp của ngã thể chúng sinh đã đứt tung. Đối với cảnh giới niết bàn, hành giả ấy hầu như sắp ngộ nhập; như gà gáy lúc canh năm, nhìn về phương Đông đã thấy hừng sáng. Sáu căn rỗng lặng, không còn giong ruổi, nội căn ngoại cảnh đều trong sáng, thể nhập tánh “vô sở nhập”; thấu suốt nguyên do thọ sinh của mười hai loài chúng sinh trong mười phương. Thế mà đến đây, do quán xét thấy được nguyên do thọ sinh, hành giả lại chấp đó là chân tâm nguồn cội, nên thức ấm không thể phá trừ. Tuy vậy, vì hành ấm đã hết, nên không còn bị lôi kéo đi thọ sinh trong mười hai loài chúng sinh; chỉ thấy mười phương thế giới đồng một thức tánh. Hành giả lúc này như trời hừng sáng, chưa hoàn toàn sáng rỡ, chỉ đủ để đánh tan bóng đêm, thấy được những vật ở chỗ u ám tối tăm; đây gọi là hành giả vẫn còn bị thức ấm ngăn che hạn chế.

Nếu ở trong chỗ chúng sinh lôi kéo nhau thọ sinh, mà đã đạt được cái thấy đồng một thức tánh; lại mài giũa sáu căn đến chỗ: khi hợp lại thì cả sáu thành một, khi mở ra thì một mà thành sáu, thấy nghe dung thông nhau, dùng thay lẫn nhau không chướng ngại; mười phương thế giới cùng với thân tâm, trong ngoài sáng suốt trong sạch như ngọc lưu li. Như thế tức là thức ấm đã hết, người tu hành bấy giờ mới có thể vượt khỏi mạng trược. Như vậy, xét kĩ lại nguyên do của thức ấm, thì gốc rễ chính là vọng tưởng điên đảo, ảo tượng hư vô.

Này A Nan! Thầy nên biết: Hành giả kia suy cứu cùng tột, cho đến khi hành ấm diệt hết, trở về nguồn cội của thức. Sự sinh diệt đã diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của cảnh giới tịch diệt. Hành giả ấy có thể khiến cho thân mình, sáu căn khác nhau mà thông suốt được với nhau: khi hợp thì sáu căn dùng như một căn, khi mở thì một căn dùng như sáu căn; lại cũng có thể thông suốt với cái hiểu biết của mọi loài chúng sinh trong mười phương; do đó mà có thể nhập vào cái nguyên ủy bao hàm vạn loại – tức là thức ấm. Nếu ở chỗ qui về đó mà chấp cho là chỗ y trú chân thường, và cho đó là cái thấy thù thắng của mình, thì hành giả rơi vào kiến chấp có “năng y trú và sở y trú”; trở thành bạn bè với Sa Tì Ca La (nhận Minh Đế làm chỗ quay về y trú), mê muội tánh bồ đề, bỏ mất tri kiến Phật. Đó là loại ma chướng thứ nhất, chấp tâm có sở đắc, chấp quả có sở qui, trái xa với tánh viên thông, phản ngược với con đường niết bàn, sinh lạc vào dòng giống ngoại đạo.

Lại nữa, này A Nan! Hành giả kia suy cứu cùng tột, cho đến khi hành ấm diệt hết. Sự sinh diệt đã diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của cảnh giới tịch diệt. Nếu ở chỗ qui về đó mà hành giả chấp cho tâm thức chính là tự thể của ta, tất cả chúng sinh trong khắp cả hư không đều lưu xuất từ thân ta, và cho đó là cái thấy thù thắng của mình, thì rơi vào kiến chấp “không phải năng sinh cho là năng sinh”; trở thành bạn bè với trời Đại Tự Tại (có thể hiện vô biên thân chúng sinh), mê muội tánh bồ đề, bỏ mất tri kiến Phật. Đó là loại ma chướng thứ hai, cho rằng tâm có thể tạo ra mọi loài, quả có thể thành tựu chuyện mọi loài, trái xa với tánh viên thông, phản ngược với con đường niết bàn, sinh lạc vào dòng giống trời đại ngã mạn, cho tự thể của ta biến khắp hư không, bao trùm muôn vật.
Lại nữa, này A Nan! Hành giả kia suy cứu cùng tột, cho đến khi hành ấm diệt hết. Sự sinh diệt đã diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của cảnh giới tịch diệt. Nếu lúc quay về mà hành giả thấy có chỗ nương tựa, thì nghĩ rằng, thân tâm mình là từ chỗ đó lưu xuất ra, và cả mười phương hư không cũng đều do chỗ đó sinh khởi; bèn ngay nơi cái chỗ sinh ra tất cả đó mà nhận cho là cái thể chân thường không sinh diệt. Vậy là, ở trong cái sinh diệt mà lại chấp cho là thường trụ. Chẳng những không rõ tánh chân như là bất sinh diệt, lại còn không biết thức ấm vẫn còn vi tế sinh diệt. An trú trong vũng mê lầm sâu nặng mà cho đó là cái thấy thù thắng của mình, bèn rơi vào kiến chấp “thức ấm là thường, ta và vạn vật là không phải thường”; trở thành bạn bè với trời Tự Tại (cho mình là nguyên nhân của vạn vật), mê muội tánh bồ đề, bỏ mất tri kiến Phật. Đó là loại ma chướng thứ ba, chấp “thức là nguyên nhân sinh ra thân tâm ta và cũng là nơi ta nương tựa”, thành tựu cái quả vọng chấp “thức là chân thường”,trái xa với tánh viên thông, phản ngược với con đường niết bàn, sinh lạc vào hạng người hoàn toàn điên đảo.

Lại nữa, này A Nan! Hành giả kia suy cứu cùng tột, cho đến khi hành ấm diệt hết. Sự sinh diệt đã diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của cảnh giới tịch diệt. Nếu trong khi quán sát thức ấm, hành giả ấy thấy rằng thức là hiểu biết, và cái hiểu biết đó biến khắp vạn pháp, nhân đó mà nhận định rằng, tất cả cây cỏ trong mười phương đều là loài hữu tình, không khác gì con người; cây cỏ làm người, người chết rồi lại làm cây cỏ, cái hiểu biết ở cùng khắp, không phân biệt hữu tình vô tình; và hành giả cho đó là kiến giải thù thắng của mình, cho nên rơi vào kiến chấp “loài vô tri có tri giác”, trở thành bạn bè với các ngoại đạo Bà Tra, Tiển Ni (chấp cho tất cả đều có giác tri), mê muội tánh bồ đề, bỏ mất tri kiến Phật. Đó là loại ma chướng thứ tư, chấp cái tâm biết khắp, thành cái quả hư vọng, trái xa với tánh viên thông, phản ngược với con đường niết bàn, sinh lạc vào hạng người tri kiến điên đảo.
Lại nữa, này A Nan! Hành giả kia suy cứu cùng tột, cho đến khi hành ấm diệt hết. Sự sinh diệt đã diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của cảnh giới tịch diệt. Nếu ở trong chỗ viên dung, sáu căn
dùng thay thế cho nhau một cách tùy tâm thuận ý, rồi căn cứ nơi chỗ viên dung này mà cho rằng tất cả vạn pháp đều do bốn đại biến hóa phát sinh. Từ đó hành giả tham cầu ánh sáng của hỏa đại, ưa tánh trong sạch của thủy đại, thích tánh châu lưu của phong đại, chiêm nghiệm những sự việc do địa đại thành tựu. Mỗi mỗi đều tôn sùng phụng sự, rồi cho cả bốn đại kia là nguyên nhân căn bản phát sinh tạo tác, chấp cho đó là tánh thường trụ, hành giả ấy bèn rơi vào kiến chấp “cái không thể sinh cho là có thể sinh ra tất cả”; trở thành bạn bè với nhóm ngoại đạo họ Ca Diếp và các Bà-la-môn (đem hết thân tâm thờ lửa, thờ nước để cầu thoát li sinh tử), mê muội tánh bồ đề, bỏ mất tri kiến Phật. Đó là loại ma chướng thứ năm, chấp trước sùng phụng, mê tâm theo vật, mong cái nhân hư vọng, cầu cái quả giả dối, trái xa với tánh viên thông, phản ngược với con đường niết bàn, sinh lạc vào hạng người điên đảo về lí lẽ sinh hóa của vạn pháp.

Lại nữa, này A Nan! Hành giả kia suy cứu cùng tột, cho đến khi hành ấm diệt hết. Sự sinh diệt đã diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của cảnh giới tịch diệt. Nếu ở trong chỗ viên minh mà chấp lấy cái trống rỗng làm nơi cứu cánh, phủ nhận sự biến hóa của vạn vật, lấy cái vĩnh viễn đoạn diệt

làm chỗ quay về nương tựa, và cho đó là cái thấy thù thắng của mình, hành giả ấy liền rơi vào kiến chấp “không phải chỗ quay về cho là chỗ quay về”; trở thành bạn bè với bọn chấp không trong cõi trời Vô-tưởng, mê muội tánh bồ đề, bỏ mất tri kiến Phật. Đó là loại ma chướng thứ sáu, chìm trong tâm hư vô, thành tựu cái quả trống rỗng, trái xa với tánh viên thông, phản ngược với con đường niết bàn, sinh lạc vào dòng giống đoạn diệt.

Lại nữa, này A Nan! Hành giả kia suy cứu cùng tột, cho đến khi hành ấm diệt hết, trở về nguồn cội của thức. Sự sinh diệt đã diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của cảnh giới tịch diệt. Nếu ở nơi tánh viên mãn thường trụ, hành giả kia muốn củng cố thân mình thường trụ như tánh ấy – tức được trường sinh bất tử, và cho đó là kiến giải thù thắng của mình thì rơi vào kiến chấp “tham trước cái không thể tham trước”; trở thành bạn bè với những tiên nhân như A Tư Đà (tham cầu trường thọ), mê muội tánh bồ đề, bỏ mất tri kiến Phật. Đó là loại ma chướng thứ bảy, chấp thức ấm là căn nguyên của mạng sống, lập cái nhân viên thường để củng cố sắc thân huyễn vọng, hướng đến quả báo trần lao lâu dài, trái xa với tánh viên thông, phản ngược với con đường niết bàn,sinh lạc vào dòng giống vọng cầu kéo dài mạng sống.

Lại nữa, này A Nan! Hành giả kia suy cứu cùng tột, cho đến khi hành ấm diệt hết, trở về nguồn cội của thức. Sự sinh diệt đã diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của cảnh giới tịch diệt. Quán xét thấy thức ấm là căn nguyên thọ mạng, các loài cùng dung thông nhau, bèn muốn ở lại chốn trần lao, – vì sợ thức ấm tiêu mất thì thân mạng không chỗ nương tựa. Bấy giờ hành giả bèn ngồi cung hoa sen, hóa ra nhiều thứ bảy báu và nhiều mĩ nữ, buông lung tâm ý, và cho như thế là đúng, cho nên rơi vào kiến chấp “lấy cái không chân thường cho là chân thường”; trở thành bạn bè với thiên ma ở cõi trời Tha Hóa Tự Tại, mê muội tánh bồ đề, bỏ mất tri kiến Phật. Đó là loại ma chướng thứ tám, phát ra cái nhân tà tưởng, thành cái quả trần lao lẫy lừng, trái xa với tánh viên thông, phản ngược với con đường niết bàn, sinh lạc vào dòng giống thiên ma.

Lại nữa, này A Nan! Hành giả kia suy cứu cùng tột, cho đến khi hành ấm diệt hết, trở về nguồn cội của thức. Sự sinh diệt đã diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của cảnh giới tịch diệt. Ở trong chỗ nguồn gốc rỗng sáng của sinh mạng mà phân tích biện biệt cái tinh diệu, cái thô lậu, để quyết đoán cái chân thật, cái hư ngụy. Ở trong vòng nhân quả thù đáp nhau thì chỉ cầu sự cảm ứng, trái với đạo nhất thừa thanh tịnh, nghĩa là: hành giả thấy khổ đế, đoạn tập đế, chứng diệt đế, tu đạo đế; và khi đạt được quả tịch diệt liền cho đó là kết quả thù thắng rốt ráo, bèn an hưởng cái vui niết bàn, không cầu tiến tới thêm nữa; cho nên rơi vào hàng “định tánh Thanh-văn”, trở thành bạn bè với nhóm tì kheo Vô Văn (đầy tánh tăng thượng mạn), mê muội tánh bồ đề, bỏ mất tri kiến Phật. Đó là loại ma chướng thứ chín, viên mãn đổi cái thô lậu thành tinh diệu, cầu cái tâm cảm ứng, thành tựu cái quả thú hướng tịch diệt, trái xa với tánh viên thông, phản ngược với con đường niết bàn, sinh lạc vào hạng người vĩnh viễn bị ràng buộc ở cõi không.

Lại nữa, này A Nan! Hành giả kia suy cứu cùng tột, cho đến khi hành ấm diệt hết, trở về nguồn cội của thức. Sự sinh diệt đã diệt, nhưng chưa viên mãn chỗ tinh diệu của cảnh giới tịch diệt. Nếu ở nơi tánh viên dung, thanh tịnh, sáng suốt, mà phát tâm suy cứu, chứng ngộ cảnh giới thâm diệu, rồi lấy cảnh giới chứng ngộ ấy cho là niết bàn rốt ráo, không cầu tiến tới thêm nữa. Do tâm thắng giải đó mà hành giả rơi vào hạng “định tánh Bích-chi”; trở thành bạn bè với hàng Duyên-giác và Độc-giác (không hồi tâm hướng lên Đại thừa), mê muội tánh bồ đề, bỏ mất tri kiến Phật. Đó là loại ma chướng thứ mười, lấy tâm giác tri viên mãn làm nhân, thành tựu quả trạm minh Độc-giác, Duyên-giác, trái xa với tánh viên thông, phản ngược với con đường niết bàn, sinh lạc vào hạng người chứng ngộ viên minh Độc-giác, Duyên-giác, nhưng không hóa giải được cái cố chấp vào cảnh giới viên minh đó.

Này A Nan! Mười cảnh giới thiền định như thế, người tu hành bỗng ở giữa chừng thành cuồng điên, vì đã nương theo những kiến giải điên cuồng mà không tự biết; ở trong chỗ chưa đầy đủ mà cho là cứu cánh. Đó là do thức ấm (vọng niệm) và tâm dụng công (chánh niệm) giao tranh nhau; và vì vọng niệm thắng nên sinh ra như thế. Chúng sinh mê muội, chẳng tự suy xét kĩ càng, khi gặp các cảnh giới như thế hiện ra trước mắt, liền dùng cái tâm ái chấp sai lầm từng tích tập từ bao đời trước mà chấp thủ, cho đó là chỗ quay về rốt ráo, an tâm dừng nghỉ nơi các cảnh giới đó; hoặc tự bảo rằng, quả vị mình đã chứng là đầy đủ, là Vô thượng Bồ đề, thành đại vọng ngữ. Như vậy, tám hạng người trước thì lạc vào tà ma ngoại đạo, khi nghiệp báo chiêu cảm hết rồi, tất đọa vào địa ngục Vô-gián; còn hai hạng Thanh-văn và Duyên-giác ở sau thì không thể nào tiến lên được nữa.

Quí thầy để tâm giữ gìn chánh đạo của Như Lai, thì sau khi Như Lai diệt độ, hãy đem pháp môn này truyền dạy trong đời mạt pháp, khiến khắp chúng sinh hiểu rõ nghĩa lí này, không để cho các loại ma tà kiến từ chính tâm mình xuất hiện, rồi tự tạo các tội nghiệt trầm trọng; hộ trì cho người tu hành dứt tuyệt tà duyên, khiến cho thân tâm họ được nhập tri kiến Phật, từ đó thẳng tiến đến thành tựu quả Phật, không bị lạc vào đường tà.

Chư Phật nhiều như vi trần, trong hằng sa kiếp quá khứ, đều nhờ pháp môn này mà khai mở tâm trí, chứng đạo Vô thượng.

Khi thức ấm hết sạch rồi, thì ngay hiện tiền, sáu căn của hành giả dùng thay thế nhau một cách dung thông. Từ chỗ sáu căn dùng thay thế lẫn nhau ấy, hành giả nhập vào địa vị Càn-tuệ kim-cang của Bồ-tát đạo, ở trong đó, cái tâm tinh diệu sáng soi biến khắp phát khởi thần thông biến hóa; như viên ngọc lưu li trong suốt, trong đó có chứa mặt trăng báu. Cứ thế mà tiến lên, trải qua các địa vị từ Thập-tín, Thập-trụ, Thập-hạnh, Thập-hồi-hướng, Tứ-gia-hạnh, Thập-địa Bồ-tát, cho đến Đẳng-giác viên minh, nhậpvào biển Diệu-trang-nghiêm của Phật, viên mãn đạo quả Bồ Đề, về đến chỗ cứu cánh “vô sở đắc”.

Đó là những ma sự vi tế mà chư Phật Thế Tôn trong quá khứ đã quán sát, phân tích, và thấy rõ trong lúc tu đại định. Khi cảnh ma hiện ra, nếu hành giả nhận biết rõ ràng thì tâm cấu nhiễm liền tẩy trừ, không bị lạc vào tà kiến. Ấm ma đã bị tiêu diệt thì thiên ma cũng tự tan nát, đại lực quỉ thần kinh hồn chạy trốn, các loại yêu tinh tiểu quỉ không còn dám ra mặt, hành giả tiến thẳng đến quả Bồ Đề, không gì thiếu sót; dù là hàng Nhị-thừa căn tánh thấp kém, cũng tinh tấn tiến tới, tâm không còn mê muội đối với đạo quả cứu cánh Niết Bàn.

Nếu ở đời mạt pháp, chúng sinh ngu độn, chưa biết rõ những cảnh tượng sai khác trong thiền định, cũng chưa biết những ma sự Phật đã dạy, mà lại ưa thích tu tam muội, thì sợ rằng họ sẽ lạc vào đường tà. Nếu thế thì quí thầy phải một lòng khuyên bảo họ, hãy trì tụng thần chú Phật Đảnh Đà La Ni của Như Lai. Nếu chưa trì tụng được, hãy viết thần chú ấy nơi thiền đường, hoặc đeo trên người, thì tất cả tà ma đều không đụng chạm được. Quí thầy hãy kính vâng lời dạy bảo cuối cùng về đường tu tiến rốt ráo của mười phương Như Lai.

Đại đức A Nan nghe lời Phật dạy bảo, ghi nhớ không sót, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ kính vâng; rồi ở trước đại chúng, lại bạch Phật rằng:

– Như lời đức Thế Tôn dạy, thì trong tướng năm ấm là năm thứ vọng tưởng mà chúng sinh cho là tâm tưởng căn bản. Chúng con ngày thường chưa được đức Thế Tôn khai thị tỉ mỉ như thế. Lại nữa, năm ấm ấy là tiêu trừ một lần, hay theo thứ lớp mà diệt dần? Và năm lớp như thế, tới đâu là giới hạn? Cúi xin đức Thế Tôn phát lòng đại từ, khiến cho tâm và mắt của đại chúng hôm nay được trong sáng, để làm đạo nhãn tương lai cho tất cả chúng sinh trong đời mạt pháp.

Đức Phật bảo đại đức A Nan:

– Tâm thuần chân luôn tịch chiếu, tánh bản giác thường viên tịnh. Tâm tánh ấy không hề mang dấu vết của sinh tử, cũng không có bóng dáng của trần cấu; mà sinh tử, trần cấu, cho đến cả hư không, đều do vọng tưởng sinh khởi. Tánh bản giác vốn thuần chân, nhiệm mầu, trong sáng, nhưng do một niệm vọng động mà phát sinh các khí thế gian; như chàng Diễn Nhã Đạt Đa, mê lú quên mất cái đầu của mình, lại nhận cái đầu trong gương là thật có. Vọng vốn không có nguyên nhân. Khi còn ở trong vọng tưởng thì cho vạn pháp là do nhân duyên sinh; và những người không biết lí nhân duyên thì lại cho là tự nhiên có. Thật ra, tánh hư không còn do huyễn hóa phát sinh, thì dù là nhân duyên hay tự nhiên cũng chỉ là những so đo chấp trước từ vọng tâm của chúng sinh mà thôi.

Này A Nan! Nếu biết vọng tưởng có chỗ khởi sinh, thì có thể nói nhân duyên của vọng tưởng; nếu vọng tưởng vốn không có chỗ khởi sinh, thì cái nhân duyên của hư vọng vốn cũng không hề có; huống chi những người không biết lí nhân duyên mà suy ra cái tánh tự nhiên, thì lại càng sai lầm! Vì vậy mà Như Lai nói rõ cho thầy biết rằng, cái nhân căn bản của năm ấm đồng là vọng tưởng.
Thân thể của thầy, trước tiên nhân vọng tưởng ái dục của cha mẹ mà sinh ra. Vả lại, nếu tâm thức trung ấm của thầy không có niệm tưởng yêu ghét đối với cha mẹ thì không thể đến hòa hợp với niệm tưởng của cha mẹ để gá thành bào thai. Như trước đây Như Lai đã nói: Tâm tưởng nghĩ đến vị chua thì trong miệng nước miếng chảy ra; tâm tưởng tượng đứng trên vách núi cao thì lòng bàn chân cảm thấy ghê rợn. Nhưng vách núi cao thì không có, vật chua thì không thấy; nếu thân thể của thầy chẳng cùng loại với hư vọng, thì tại sao khi nghe nói tới “chua” thì nước miếng trong miệng liền chảy ra? Cho nên phải biết, sắc thân hiện tại của thầy chính là loại vọng tưởng thứ nhất, gọi là vọng tưởng kiên cố.

Ngay nơi tâm tưởng tượng đứng trên vách núi cao, như vừa mới nói, có thể khiến thân thầy thật sự cảm thấy ghê rợn. Do tâm tưởng làm nhân mà thọ ấm phát sinh, làm giao động sắc thân. Hiện thời ở nơi thầy, hai thứ cảm thọ: thuận ý thì vui, nghịch ý thì khổ, xô đẩy tâm thầy giong ruổi không ngừng. Đó là loại vọng tưởng thứ hai, gọi là vọng tưởng hư minh.

Do những niệm tưởng sai khiến sắc thân thầy, nếu sắc thân không phải cùng loại với niệm tưởng, thì vì cớ gì mà thân thầy theo chịu sự sai khiến của niệm tưởng mà nhận lấy các thứ hình tượng, rồi sinh tâm chấp nhận những hình tượng phù hợp với niệm tưởng? Lúc thức là tâm tưởng, lúc ngủ là chiêm bao. Thế là niệm tưởng của thầy luôn luôn lay động vọng tình; đó là loại vọng tưởng thứ ba, gọi là vọng tưởng dung thông.

Hành ấm biến hóa không ngừng, niệm niệm âm thầm dời đổi. Móng tay dài dần, tóc mọc ra, khí lực hao mòn, da mặt nhăn nheo, tất cả đều biến đổi ngày đêm mà không hề hay biết. A Nan! Nếu sự trạng ấy không phải là thầy thì tại sao thân thể thầy lại biến đổi? Mà sự trạng ấy nếu quả thật là thầy thì tại saothầy không hay biết? Vậy thì các hành trôi chảy nơi thầy, niệm niệm không dừng, đó là loại vọng tưởng thứ tư, gọi là vọng tưởng u ẩn.

Lại nữa, cái thức thể tinh thuần, chiếu suốt, trong lặng, không chao động ở nơi thầy, cho đó là tánh chân thường ư? Sự thật thì nơi thân thầy nó chẳng qua chỉ là những sự thấy, nghe, hay, biết mà thôi. Nếu nó quả là tánh tinh thuần chân thật, thì lẽ ra nó không huân tập dung chứa những sự nhiễm ô hư vọng. Vậy mà tại sao trong năm xưa thầy từng thấy một vật lạ, trải qua nhiều năm không hề nhớ đến, hôm nay tình cờ thấy vật lạ ấy, thầy liền nhớ lại rõ ràng, không sai lộn tí nào? Thế mới biết, trong thức tánh tinh thuần, trong lặng, không chao động đó, niệm niệm không ngừng nhận sự huân tập, không thể lường tính hết được.

Này A Nan! Thầy nên biết, cái thức tánh trong lặng đó không phải chân thật; như dòng nước chảy xiết mà trông như đứng yên, ấy là vì chảy nhanh mà không thấy chứ chẳng phải là không chảy. Nếu nguồn cội của nó không phải là vọng tưởng thì nó đâu có để cho vọng tưởng huân tập! Nếu sáu căn của thầy chưa dùng thay cho nhau dung thông tự tại, thì cái nguồn cội vọng tưởng vi tế ấy không bao giờ tiêu diệt được. Vì vậy, cái tập khí quán xuyến điều khiển những sự thấy nghe hay biết của thầy hiện nay, là loại vọng tưởng thứ năm, đó là vọng tưởng điên đảo, tinh vi tế nhiệm, huyễn hóa rỗng không, ẩn trong tánh trong lặng chiếu suốt của thầy.

A Nan! Năm ấm đó do năm thứ vọng tưởng như thế tạo thành. Nay thầy muốn biết giới hạn sâu cạn của năm ấm đó, thì sắc với không là biên giới của Sắc ấm; chạm với lìa là biên giới của Thọ ấm; nhớ với quên là biên giới của Tưởng ấm; diệt với sinh là biên giới của Hành ấm; trong lặng nhập hợp với trong lặng là biên giới của Thức ấm.

Căn nguyên của năm ấm ấy trùng điệp sinh khởi. Sinh thì nhân Thức ấm mà có; diệt thì từ Sắc ấm mà trừ. Luận về lí thì là đốn ngộ, nhân cái ngộ đó mà tất cả vọng tưởng đều tiêu liền; luận về sự thì không thể tiêu trừ ngay, mà phải tuần tự theo thứ lớp.

Như Lai đã khai thị cho thầy về những cái gút của chiếc khăn, có chỗ nào không rõ mà thầy phải hỏi lại? Thầy hãy đem cái tâm thông suốt về căn nguyên của vọng tưởng đó mà truyền dạy cho đời sau, khiến cho những người tu hành trong đời mạt pháp biết rõ sự hư vọng mà tự sinh nhàm chán, và biết có niết bàn mà không mê luyến ba cõi.

A Nan! Giả sử có người đem các thứ trân bảo đầy ắp hư không, cùng khắp mười phương, dâng lên
cúng dường chư Phật nhiều như vi trần, mà tâm không lúc nào xao lãng; thầy nghĩ thế nào, do nhân duyên cúng dường chư Phật như thế, người ấy được phước báo nhiều chăng?

Đại đức A Nan bạch Phật:

– Hư không vô tận, trân bảo vô biên. Ngày xưa có người cúng dường Phật chỉ bảy đồng tiền, mà sau khi bỏ thân còn được phước báo làm bậc Chuyển Luân Vương; huống chi hiện tiền nguời kia đem vô lượng trân bảo cúng dường chư Phật biến khắp mười phương hư không, thì dù suy nghĩ cho đến hết kiếp cũng không thể thấu được, vì phước báo ấy không có bờ bến!

Phật bảo đại đức A Nan:

– Lời nói của chư Phật không hư vọng. Giả sử có người tạo đủ các tội, như bốn tội căn bản cực nặng, mười tội cực ác, trong giây lát phải đọa địa ngục Vô-gián liên tục từ phương này sang phương khác trải khắp mười phương; nhưng nếu người đó ở trong một niệm, có thể đem pháp môn này khai thị cho người chưa tu học trong đời mạt pháp, thì những tội chướng nặng nề kia, ngay trong niệm ấy liền được tiêu trừ, biến cái nhân thọ khổ địa ngục trở thành cái nhân sinh về cõi an lạc. Phước báo của người này có được, so với người cúng dường trân bảo trên kia, còn lớn hơn gấp trăm, ngàn, vạn, ức lần; dù có tính toán hay thí dụ thế nào cũng không thể nói hết được. A Nan! Nếu có chúng sinh được tụng kinh này, được trì chú này, thì phước báo của chúng sinh ấy, dù Như Lai có tuyên dương đến trọn kiếp cũng không nói hết được.

Hãy y theo lời dạy của Như Lai mà tu hành thì không còn sợ bị ma chướng, mà sẽ tiến thẳng đến thành tựu viên mãn đạo quả Vô Thượng Bồ Đề.

Phật nói kinh này xong, các hàng tì-kheo, tì-kheo-ni, cư-sĩ nam, cư-sĩ nữ, tất cả trời, người và a-tu-la trong thế gian, cùng các hàng Bồ-tát, Nhị-thừa, thánh tiên, đồng tử từ các phương khác đến, và các vị đại lực quỉ thần mới phát tâm hộ trì Phật pháp, tất cả đều rất vui mừng, lễ Phật rồi lui ra.

Kinh Thủ Lăng Nghiêm - 50 Hiện Tượng Ấm Ma (1)

 Kinh Thủ Lăng Nghiêm - 50 Hiện Tượng Ấm Ma (1)

KINH ĐẠI PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM - Quyển 9

Ma Chướng trên Đường Tu Tập

– Này A Nan! Những người tu tâm trong thế gian, vì không tu thiền định vô lậu nên không có được trí tuệ xuất thế gian. Họ chỉ giữ thân thanh tịnh, không hành động dâm dục, đi đứng ngồi nằm đều không nghĩ tưởng tới dâm dục. Niệm ái nhiễm không sinh thì họ vượt thoát lên khỏi cõi Dục; bản thân họ đã là bạn bè của hàng phạm hạnh, gọi đó là trời Phạm-chúng.

Trời Phạm-chúng, khi đã dứt trừ tập khí ngũ dục, tâm li dục hiển hiện, đối với các luật nghi đều vui vẻ tùy thuận; ngay lúc đó họ vượt khỏi trời Phạm-chúng, hoằng dương tịnh đức phạm hạnh, gọi đó là trời Phạm-phụ.

Trời Phạm-phụ, khi thân tâm viên mãn vi diệu, bốn oai nghi đi đứng ngồi nằm không còn khiếm khuyết, các cấm giới hoàn toàn thanh tịnh, lại có trí tuệ sáng suốt, thì liền lúc đó, họ có đầy đủ tư cách của một vị đại phạm vương, có khả năng thống lãnh toàn thể phạm chúng, gọi đó là trời Đại-phạm.

Này A Nan! Ba hạng thiên chúng vượt trội trên đây không còn bị mọi thứ khổ não bức nhiễu; tuy họ không tu tập theo chánh định của Phật pháp, nhưng trong tâm đã giữ giới trong sạch, các lậu hoặc của cõi Dục không lay động được, nên gọi đó là trời Sơ-thiền.

Này A Nan! Thứ đến, trời Đại-phạm khi thống lãnh phạm chúng, được phạm hạnh viên mãn, lắng tâm không giao động; do sự lặng trong mà bắt đầu phát ra ánh sáng, gọi đó là trời Thiểu-quang.

Ánh sáng nơi thân và ánh sáng nơi tâm cùng chiếu rọi nhau, rực rỡ vô tận, soi thấu mười phương thế giới; nội thân ngoại cảnh trong suốt, khắp nơi trở thành lưu li, gọi đó là trời Vô-lượng-quang.

Giữ lấy ánh sáng toàn vẹn, lấy đó làm âm thanh thanh tịnh để giáo hóa thiên chúng, ứng dụng không cùng, gọi đó là trời Quang-âm.

Này A Nan! Ba hạng thiên chúng vượt trội trên đây không còn bị các thứ lo buồn bức nhiễu; tuy họ không tu tập theo chánh định của Phật pháp, nhưng trong tâm đã thanh tịnh, các lậu hoặc thô trọng đã được điều phục, nên gọi đó là trời Nhị-thiền.

Này A Nan! Thiên nhân cõi trời Quang-âm kia phát huy ánh sáng viên mãn để thành tựu âm thanh làm phương tiện giáo hóa, hiển lộ diệu lí mà phát ra hạnh tinh thuần, xa lìa cái động của nỗi mừng mà bắt đầu hòa nhập vào niềm vui tĩnh lặng, gọi đó là trời Thiểu-tịnh.

Tịnh cảnh bây giờ cũng trống không, dẫn phát bao la không bờ bến, thân tâm nhẹ nhàng trong niềm vui tĩnh lặng, gọi đó là trời Vô-lượng-tịnh.

Thế giới và thân tâm, tất cả đều hoàn toàn thanh tịnh; đức tánh thuần tịnh thành tựu viên mãn, chỗ qui thác thù thắng hiện tiền, trở về cõi vui tĩnh lặng, gọi đó là trời Biến-tịnh.

Này A Nan! Ba hạng thiên chúng vượt trội trên đây, đầy đủ công năng tùy thuận, thân tâm an ổn, được niềm vui cực diệu vô lượng; tuy không có được chánh định của Phật pháp, nhưng trong tâm an ổn, hoan hỉ trọn vẹn, nên gọi đó là trời Tam-thiền.

Lại nữa, này A Nan! Thiên chúng ở cõi Tam-thiền kia, thân tâm không còn bị bức nhiễu, không còn những nguyên nhân gây đau khổ thì cái vui phát sinh; nhưng họ xét thấy cái vui cũng không thường còn vĩnh viễn, lâu rồi cũng phải hoại diệt, cho nên liền xả bỏ cùng lúc cả hai tâm vui khổ. Các tướng
thô trọng đã diệt thì tánh phúc đức thanh tịnh phát sinh, gọi là trời Phúc-sinh.

Khi tâm xả bỏ đi đến chỗ viên dung, cái thấy về năng-xả sở-xả cũng không còn, hoàn toàn thanh tịnh; ở trong cái tịnh phúc không giới hạn đó, họ được tâm tùy thuận nhiệm mầu, cho đến cùng tột đời vị lai, gọi đó là trời Phúc-ái.

Này A Nan! Từ cõi trời Phúc-ái đi tiếp lên nữa thì có hai ngã rẽ: Nếu ở nơi cái tâm tùy thuận nhiệm mầu trước kia, nay nhờ sức thiền định thâm sâu mà phát ra ánh sáng thanh tịnh vô lượng, lại tiếp tục huân tu phúc đức cho đến chỗ tròn đầy sáng suốt, và an trụ nơi đó, gọi là trời Quảng-quả.

Nếu ở nơi cái tâm nhàm chán cả khổ vui trước kia, nay lại nghiền ngẫm tăng tiến tu tâm phóng xả, liên tục không gián đoạn, cho đến lúc tròn vẹn cùng tột sự buông bỏ, thân tâm đều diệt, dứt bặt tư duy, trải 500 kiếp. Thiên nhân này đã lấy cái sinh diệt làm nhân tu tập, nên không thể phát minh cái tánh không sinh diệt, vì vậy, trong nửa kiếp đầu thì tu tập để đạt được sự diệt tư tưởng, đến nửa kiếp chót, lúc thọ mạng sắp hết, thì tâm tưởng tự sinh trở lại. Đó là trời Vô-tưởng.

Này A Nan! Bốn hạng thiên chúng vượt trội trên đây, tất cả các cảnh khổ vui trong thế gian đều không lay động được; tuy không phải là địa vị bất động vô vi chân thật của Phật pháp, nhưng trong tâm cũng đã có chỗ sở đắc về định buông xả, công dụng đã đến mức thuần thục, cho nên gọi là trời Tứ-thiền.

Này A Nan! Ở trong tầng trời Tứ-thiền này, lại còn có năm cõi trời Bất-hoàn. Các vị thánh ở năm cõi trời này, trước kia ở Dục giới đã đoạn trừ hết chín phẩm tập khí tư hoặc, cái khổ ở cõi Dục đã tiêu, mà cái vui ở các cõi Sơ, Nhị và Tam-thiền cũng không hưởng thọ; những cõi dưới đó không phải là chỗ ở của quí vị ấy nữa, nên an lập chỗ ở nơi đây, đồng phận trong tâm xả với thiên chúng Tứ-thiền.
Này A Nan! Khổ vui đều đoạn diệt, tâm chán khổ và tâm thích vui không còn giao tranh nhau, đó là trời Vô-phiền.

Phóng ra hay thu vào, cũng chỉ duy nhất một niệm xả; và niệm xả ấy cực kì vi tế, không thể nào suy cứu hay giao tiếp được, đó là trời Vô-nhiệt.

Chứng đắc thiên nhãn thông, thấy rõ trọn vẹn mười phương thế giới, không bị ngoại cảnh chướng ngại; tâm niệm lắng trong, không còn tì vết của cấu nhiễm, đó là trời Thiện-kiến.

Cái thấy tinh diệu đã hiện tiền, sức định tuệ tùy tâm vận dụng vô ngại, đó là trời Thiện-hiện.

Suy cứu cùng cực, từ nhiều niệm tiến đến chỉ còn một niệm; từ sắc thể thô trọng tiến đến chỗ cực vi tế, nhập vào cảnh giới toàn không, giáp giới cõi Không-vô-biên-xứ, đó là trời Sắc-cứu-cánh.

Này A Nan! Năm cõi trời Bất-hoàn này, chỉ riêng bốn vị thiên vương của bốn cõi trời Tứ-thiền ngay phía dưới được nghe tên và kính ngưỡng, nhưng không thể biết sự thọ dụng thế nào, không thể thấy y chánh báo ra sao; cũng như hiện tại ở thế gian, đạo tràng của thánh nhân ở những chốn rừng sâu núi thẳm, đều là nơi các bậc A-la-hán trụ trì, mà người phàm phu thô lậu đâu có thể thấy biết được!

Này A Nan! Mười tám cõi trời trên đây, sống trong thiền định thanh tịnh tĩnh lặng, không giao tiếp bạn bè như ở nhân gian, nhưng vẫn chưa thoát khỏi hết cái hệ lụy của thân hình. Từ cõi trời Sắc-cứu-cánh đây, xuống cho đến cõi trời Phạm-chúng, gọi là cõi SẮC GIỚI.

Lại nữa, này A Nan! Từ cõi trời cao nhất của Sắc giới này đi lên, trong khoảng giữa sắc và vô sắc, lại có hai đường tẽ:

Nếu ở nơi tâm xả mà phát huy trí tuệ vô lậu đến mức sáng suốt viên mãn, thì vượt thoát trần gian, thành A-la-hán, tiến vào Bồ-tát thừa, đó gọi là bậc Hồi-tâm Đại A-la-hán.

Nếu ở nơi tâm xả mà thành tựu niệm chán bỏ, biết rằng còn có thân là còn có chướng ngại, bèn tiêu trừ cái sắc thân chướng ngại ấy để nhập vào hư không, đó gọi là cõi trời Không-xứ.

Các chướng ngại đã tiêu trừ, mà cái hư không vô ngại cũng diệt, chỉ lưu lại thức a-lại-da và phần vi tế của thức mạt-na, đó là cõi trời Thức-xứ.

Sắc không đã tiêu mất, phần vi tế của thức mạt-na cũng tiềm phục không hiện hành, mười phương vắng lặng, hoàn toàn không có chỗ đi về, đó là cõi trời Vô-sở-hữu-xứ.

Thức tánh vốn bất động, dùng sức diệt tận định để nghiệm xét cùng cực. Ở trong cái thức tánh vô tận mà miễn cưỡng tuyên bày cái tánh tận, cho nên hình như còn mà không phải còn, giống như hết mà không phải hết, đó là cõi Phi-tưởng-phi-phi-tưởng xứ.

Bốn cõi trời Không đó, muốn khiến cho tâm cảnh đều không, nhưng không hoàn toàn đạt được lí không. Nếu từ năm cõi trời Bất-hoàn lên đây mà tu tập thánh đạo, đến chỗ chứng nhập lí ngã không, gọi đó là bậc Bất-hồi-tâm độn A-la-hán. Nếu từ các cõi trời Vô-tưởng và Quảng-quả lên đây mà tu tập thiền định hữu lậu, mê trời hữu lậu, không nghe biết chánh pháp, cái đạt được chỉ là không tưởng, không có chỗ quay về, cho nên phải vào lại trong vòng lưu chuyển luân hồi. Này A Nan! Bốn cõi trời Không đó, thân tâm diệt hết, chỉ có định tánh hiện tiền, không có các nghiệp quả bằng sắc pháp; từ cõi Không-xứ cho đến cõi Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ, gọi là cõi VÔ SẮC GIỚI.

Này A Nan! Thiên chúng ở các cõi trời trên đây (ngoại trừ ở năm cõi Bất-hoàn), đều là người phàm phu được hưởng thọ phước báo; khi hưởng phước hết rồi thì trở lại luân hồi. Riêng các vị thiên vương của các cõi trời kia thì đều là Bồ-tát, luôn trụ trong chánh định, dần dà tiến lên trên đường tu tập hướng tới Phật đạo.

Tất cả thiên chúng đó đều do không rõ biết tánh giác sáng suốt nhiệm mầu vốn có nơi mình, cho nên vọng niệm tích tụ, rồi vọng sinh ba cõi; trong đó, các loài hữu tình, mỗi mỗi lại tùy theo vọng nghiệp mà chìm đắm trong bảy nẻo, thọ báo theo loại của mình.

Lại nữa, này A Nan! Trong ba cõi ấy còn có bốn loài A-tu-la: Có loài nguyên từ loài Quỉ, do phước lực hộ trì Phật pháp mà có được thần thông, nhập vào hư không; loài A-tu-la này sinh ra từ trứng, thuộc về loài Quỉ. Có loài nguyên từ loài Trời, vì kém phước đức mà bị đọa lạc, ở gần mặt trời mặt trăng; loài A-tu-la này sinh ra từ bào thai, thuộc về loài Người. Có A-tu-la vương nắm giữ thế giới, sức mạnh suốt khắp chư thiên, không hề sợ ai, hay tranh quyền mà gây chiến với các trời Phạm Vương, Đế Thích và Tứ Thiên Vương; loại A-tu-la này do biến hóa mà sinh ra, thuộc về loài Trời. Này A Nan! Lại có loài A-tu-la thấp kém, sinh trong lòng biển cả, lặn dưới vực sâu, ban ngày dạo đi trên hư không, tối về ngủ dưới nước; loại A-tu-la này do thấp khí sinh ra, thuộc về loài Súc-sinh.

Này A Nan! Xét cho cùng thì cả bảy nẻo: Địa-ngục, Ngạ-quỉ, Súc-sinh, Người, Tiên, A-tu-la, và Trời, đều là những tướng hữu vi, chìm đắm trong các cảnh giới tối tăm, do vọng tưởng mà thọ sinh, rồi cũng theo vọng tưởng mà tạo nghiệp; ở trong bản tâm vô tác, mầu nhiệm, sáng suốt, tròn đầy, chúng đều như hoa đốm giữa hư không, chẳng có chút gì dính dáng, tuyệt không gốc rễ mối manh, chỉ thuần là hư vọng.

Này A Nan! Các loài chúng sinh đó, vì không nhận rõ bản tâm mà phải thọ khổ trong bảy nẻo luân hồi này. Trải vô lượng kiếp, chúng không hề có được sự thanh tịnh chân thật, cũng bởi do buông lung theo các nghiệp sát, đạo, dâm, hoặc ngược lại ba nghiệp trên thì sinh ra không-sát, không-đạo, không-dâm; có sát đạo dâm thì đọa vào ba đường ác,không sát đạo dâm thì vào bốn cõi lành; có và không cứ đắp đổi thay nhau, khởi tánh luân hồi không dứt.

Nếu khéo phát huy được đại định thì tâm tánh trở nên thường hằng, tĩnh lặng, nhiệm mầu, có và không đều không, không-có và không-không cũng diệt; lúc đó, niệm không-sát, không-đạo, không-dâm còn không có, thì lấy gì mà buông lung theo các việc sát, đạo, dâm?

Này A Nan! Vì không đoạn dứt ba ác nghiệp nên mỗi mỗi chúng sinh đều tự mình tạo nghiệp riêng. Từ những nghiệp riêng ấy nhóm chung lại thành nghiệp đồng phận, cho nên nơi thọ báo không phải là không có chỗ nhất định. Tất cả đều do một niệm vọng động phát sinh; mà vọng tánh thì không có thật thể, không thể truy tìm nguồn gốc từ đâu được.

Người tu hành, muốn đạt đạo Vô-thượng Bồ-đề, cần phải dứt trừ ba hoặc. Ba hoặc chưa trừ hết thì dù có được thần thông, cũng chỉ là những công dụng hữu vi của thế gian. Tập khí mê lầm chẳng tận diệt thì cuối cùng cũng rơi vào đường ma; tuy muốn trừ cái vọng, nhưng lại chồng chất cái vọng nhiều thêm. Như Lai nói đó là người rất đáng thương xót!

Cái vọng đó là do tự tâm mình tạo ra, không phải là lỗi ở tánh bồ đề. Nói như thế tức là lời nói chân chánh; nếu nói khác đi thì đó là lời nói của ma vương.

Lúc đó đức Phật sắp chấm dứt thời pháp, ở nơi tòa sư tử, Ngài vịn ghế thất bảo, xoay thân sắc vàng sáng rỡ, không đợi thỉnh hỏi, Ngài bảo khắp đại chúng và đại đức A Nan rằng:

– Quí thầy là hàng hữu học Thanh-văn, Duyên-giác, đã hồi tâm hướng về quả Vô-thượng Diệu-giác Đại-bồ-đề. Nay Như Lai đã vì quí thầy mà chỉ dạy pháp tu hành chân thật; nhưng vẫn còn một việc mà quí thầy chưa biết, đó là những ma sự phức tạp có thể gặp phải trong lúc tu tập thiền định. Nếu cảnh ma hiện ra mà không nhận biết, thì việc tẩy trừ tâm cấu nhiễm sẽ không làm đúng cách, lại còn rơi vào tà kiến. Hoặc là ma ngũ ấm nơi chính mình, hoặc là thiên ma, hoặc là các loại quỉ thần, li mị, những thứ ấy hiện khởi mà trong tâm nếu không biết rõ ràng, thì chắc chắn sẽ nhận giặc làm con. Mặt khác, trong lúc tu tập, mới được chút ít đã cho là đầy đủ. Như tì kheo Vô Văn, vừa được định Tứ-thiền bèn nói dối là chứng Thánh quả. Đến khi phước báo chư thiên hết rồi, tướng suy hiện ra, lại hủy báng rằng: “Đã chứng quả A-la-hán mà còn thọ thân sau!”, liền bị đọa xuống địa ngục A-tì. Vậy giờ đây quí thầy hãy lắngnghe cho kĩ, Như Lai sẽ vì quí thầy mà phân biệt rành rẽ.

Đại đức A Nan cùng hàng hữu học trong chúng hội đồng đứng dậy, vui mừng đảnh lễ, thành tâm kính nghe Phật từ bi chỉ dạy.

Đức Phật bảo đại đức A Nan cùng đại chúng:

– Quí thầy nên biết, mười hai loài chúng sinh trong thế giới hữu lậu, tâm thể vốn tròn đầy, sáng suốt nhiệm mầu, cùng với chư Phật mười phương không hai, không khác. Do vì vọng tưởng mà mê muội chân lí, rồi thành ra lỗi lầm, si ái phát sinh, đối với chân tâm bản giác hoàn toàn mê vọng, không thấy chân giác mà chỉ thấy có hư không. Mê vọng biến hóa không ngừng, nên từ hư không mà có thế giới sinh ra. Vậy thì các quốc độ nhiều như vi trần trong mười phương này đều không phải là vô lậu, mà đều do vọng tưởng mê lầm kiến lập.

Quí thầy nên biết, hư không vô biên sinh từ trong tâm quí thầy, chỉ như một làn mây mỏng điểm trên bầu trời xanh bao la, huống chi là các thế giới ở trong hư không ấy! Nếu trong số quí thầy, một vị nào đó tâm bỗng bừng sáng, quay về cội nguồn chân thật, thì mười phương hư không kia thảy đều tiêu mất; làm sao các quốc độ trong cõi hư không ấy lại được bảo toàn mà không bị rung đổ? Quí thầy tu

thiền, tập định, ngay trong sự đi đứng ngồi nằm mà tâm thường tinh tường trong lặng, thì được cùng thông hợp với chư vị Bồ-tát và vô lậu đại A-la-hán trong mười phương. Trong khi đó thì tất cả ma vương, quỉ thần, chư thiên phàm phu, đều thấy cung điện của mình không có cớ gì, bỗng nhiên bị sụp đổ; đại địa rung động; các loài bay trên không, đi trên đất, bơi lội dưới nước, đều hoảng kinh sợ sệt; hạng người phàm phu hôn muội không biết có người tu hành sắp chứng quả, thấy vô cớ mà cảnh vật rung chuyển xê dịch thì nói ngoa rằng: do âm dương mất điều hòa.

Những loài thiên ma, quỉ thần kia đều có được năm thứ thần thông (chỉ trừ lậu tận thông là không có), còn luyến tiếc chốn trần lao này, đâu chịu để cho chỗ ở của họ bị phá đổ! Vì vậy, trong lúc quí thầy đang ở trong định thì quỉ thần, thiên ma, vọng lượng, yêu tinh, đến quấy phá. Nhưng các loài ma mị kia, dù có giận dữ thế nào đi nữa, chúng vẫn ở trong chốn trần lao sinh diệt, còn quí thầy thì ở trong cảnh giới diệu giác chân thường; cái sinh diệt muốn phá hoại cái chân thường thì cũng giống như gió thổi ánh sáng, như dao chém nước, chẳng hề hấn gì. Người tu chánh định như nước sôi, bọn tà ma như cục nước đá; nước đá gần hơi nóng thì chẳng mấychốc liền tiêu tan. Các loài quỉ thần yêu ma kia tuy cậy có sức thần thông, nhưng cũng chỉ như khách trọ qua đêm. Chúng quấy phá được chăng, chính là do người chủ năm ấm ở trong tâm quí thầy; người chủ nếu mất chánh niệm thì khách mới được dịp quấy phá.

Lúc đang nhập định, nếu trí tuệ sáng tỏ, không chút mê lầm, thì các ma chướng kia không làm gì được. Năm ấm tiêu tan, nhập vào kho tàng ánh sáng, thì bọn tà ma kia đều phải chịu phận tối tăm. Lấy trí tuệ sáng suốt để phá trừ u tối, ánh sáng đi tới đâu thì bóng tối tự tiêu mất tới đó. Như thế thì yêu ma làm sao dám ở lại để quấy nhiễu người tu thiền định?

Nếu bị năm ấm mê hoặc, không thấy rõ cảnh ma, thì, này A Nan, ngay chính thầy là con của ma, và kết quả tu tập cũng chỉ trở thành ma quân mà thôi! Như cô Ma Đăng Già, sức hãy còn yếu ớt, nhưng chỉ dùng một câu chú mà bắt thầy phải phá luật nghi của Phật, trong tám muôn hạnh chỉ phá một giới; may mà tâm thầy còn thanh tịnh nên chưa bị chìm đắm. Còn bọn ma năm ấm đây, chúng muốn phá hoại pháp thân huệ mạng của thầy, như ông quan tể tướng, một hôm phạm tội, nhà cửa gia sản liền bị tịch biên, long đong phiêu bạt, không ai thương xót cứu giúp được.

Này A Nan! Thầy nên biết, thầy ngồi nơi đạo tràng, các niệm đều tiêu mất. Các niệm đã tiêu hết, thì trong tâm li-niệm, tất cả đều thuần nhất sáng tỏ, động tĩnh không đổi dời, nhớ quên như một. Ngay ở trạng thái đó mà nhập vào chánh định thì như người sáng mắt ngồi ở chỗ tối tăm, tánh tinh thuần tuy vẫn thanh tịnh nhiệm mầu, nhưng tâm chưa phát sáng; đó là bởi vì căn tánh vẫn còn bị sắc ấm hạn chế ngăn che. Khi nào con mắt sáng tỏ, mười phương rỗng suốt, không còn tối tăm, thì đó là lúc sắc ấm đã hết, người tu hành bấy giờ mới đạt được kết quả đầu tiên là vượt khỏi kiếp trược. Như vậy, xét kĩ lại nguyên do của sắc ấm, thì gốc rễ chính là vọng tưởng kiên cố.

Này A Nan! Đang trong lúc tu định mà sắc ấm chưa phá trừ, suy xét tinh tường tánh sáng suốt nhiệm mầu, trong khoảnh khắc thấy thân này như bóng, ngoại cảnh như mây, bốn đại không còn kết hợp, không có gì ngăn ngại; đó gọi là tâm tinh diệu sáng suốt tuôn tràn trước mắt. Nhưng đó chỉ là do dụng công tư duy mà tạm được kết quả như thế, không phải đã chứng bậc thánh. Nếu hành giả gặp cảnh giới này mà không bám chặt, không cho là mình đã chứng bậc thánh, thì đó là cảnh giới thiện

tường; nếu tự đắc mà cho là mình đã chứng bậc thánh, liền rơi vào tà kiến.

Này A Nan! Cũng ở trong tâm định này, suy cứu tinh tường tánh sáng suốt nhiệm mầu, tự thấy thân mình rỗng suốt, hành giả bỗng nhiên từ trong thân mình, nhặt ra những con sán lãi, mà thân vẫn bình thường, không bị thương tổn; đó gọi là tâm tinh diệu sáng suốt tuôn tràn nơi hình thể. Nhưng đó chỉ là do tu tập tinh tiến mà tạm được kết quả như thế, không phải đã chứng bậc thánh. Nếu hành giả gặp cảnh giới này mà không bám chặt, không cho là mình đã chứng bậc thánh, thì đó là cảnh giới thiện tường; nếu tự đắc mà cho là mình đã chứng bậc thánh, liền rơi vào tà kiến.

Cũng ở trong tâm định này, tinh tường suy cứu trong thân ngoài cảnh, khi ấy thì hồn phách, ý chí, tinh thần, ngoài cái thân ra, đều xen nhập vào nhau, đắp đổi làm chủ, làm khách của nhau. Bấy giờ, hành giả bỗng nghe tiếng nói pháp ở trên không, hoặc nghe khắp mười phương đồng diễn bày diệu nghĩa bí mật; đó gọi là tinh thần hồn phách đắp đổi khi lìa khi hợp. Nhưng đó chỉ là do nhân lành bao đời tích tập, bây giờ tự phát huy mà tạm được kết quả như thế, không phải đã chứng bậc thánh. Nếu hành giả gặp cảnh giới này mà không bám chặt, không cho làmình đã chứng bậc thánh, thì đó là cảnh giới thiện tường; nếu tự đắc mà cho là mình đã chứng bậc thánh, liền rơi vào tà kiến.

Cũng ở trong tâm định này, lắng trong thấu suốt, ánh sáng từ bên trong hiển hiện, chợt thấy mọi vật trong khắp mười phương đều biến thành màu vàng kim, tất cả các loài đều hóa thành chư Phật; lại thấy đức Phật Tì Lô Giá Na ngồi trên đài thiên quang, có hàng ngàn đức Phật vây quanh; trăm ức quốc độ cùng với hoa sen cùng lúc xuất hiện. Ấy gọi là tâm thức linh ngộ; nhưng đó chỉ là sự huân tập do từng được nghe kinh pháp từ bao đời, bây giờ tâm sáng phát ra chiếu soi khắp các thế giới; chỉ tạm nói là như thế, chứ không phải đã chứng bậc thánh. Nếu hành giả gặp cảnh giới này mà không bám chặt, không cho là mình đã chứng bậc thánh, thì đó là cảnh giới thiện tường; nếu tự đắc mà cho là mình đã chứng bậc thánh, liền rơi vào tà kiến.

Cũng ở trong tâm định này, suy cứu tinh tường tánh sáng suốt nhiệm mầu, quán sát không ngừng, ức chế hàng phục tự tâm; cố gắng thái quá, bỗng thấy mười phương hư không đều thành màu bảy báu, hoặc màu trăm báu, tất cả đồng thời đầy khắp mà không chướng ngại nhau; các màu xanh vàng đỏ trắng, mỗi mỗi hiện ra tinh thuần, không hỗn tạp. Đóchỉ là do dụng công ức chế thái quá, khiến cho định lực vượt hơn tuệ lực mà tạm có kết quả như thế, không phải đã chứng bậc thánh. Nếu hành giả gặp cảnh giới này mà không bám chặt, không cho là mình đã chứng bậc thánh, thì đó là cảnh giới thiện tường; nếu tự đắc mà cho là mình đã chứng bậc thánh, liền rơi vào tà kiến.

Cũng ở trong tâm định này, tĩnh lặng rỗng suốt, phát sinh ánh sáng tinh thuần, không loạn động, bỗng nhiên nửa đêm, ở trong nhà tối mà hành giả trông thấy mọi vật tỏ rõ như giữa ban ngày, mà những vật trong nhà tối ấy vẫn y nhiên, không chút gì thay đổi. Đó là tâm tinh tế kín nhiệm làm lắng trong cái thấy, nên thấy rõ suốt chỗ tối tăm mà tạm được như thế, không phải là đã chứng bậc thánh. Nếu hành giả gặp cảnh giới này mà không bám chặt, không cho là mình đã chứng bậc thánh, thì đó là cảnh giới thiện tường; nếu tự đắc mà cho là mình đã chứng bậc thánh, liền rơi vào tà kiến.

Cũng ở trong tâm định này, trọn vẹn dung thông với hư không, bỗng nhiên hành giả thấy tứ chi đồng như cây cỏ, dù lửa đốt hay dao cắt cũng không có cảm giác gì; thậm chí ngọn lửa hực không thể làm cho nóng, dù cắt thịt cũng giống như chẻ cây. Đó là các trần đều tiêu, bốn đại giải trừ, tiến thẳng vào chỗ thuần nhất, mà tạm được kết quả như thế, không phải đã chứng bậc thánh. Nếu hành giả gặp cảnh giới này mà không bám chặt, không cho là mình đã chứng bậc thánh, thì đó là cảnh giới thiện tường; nếu tự đắc mà cho là mình đã chứng bậc thánh, liền rơi vào tà kiến.

Cũng ở trong tâm định này, thành tựu tâm thanh tịnh; dụng công làm trong sạch tâm đến cùng cực, hành giả bỗng thấy mười phương sơn hà đại địa đều biến thành Phật độ, đầy đủ bảy báu, chói sáng cùng khắp; lại thấy hằng sa chư Phật đầy khắp cõi hư không, lầu các đại điện trang nghiêm hoa lệ; nhìn xuống thấy địa ngục, nhìn lên thấy thiên cung, rõ ràng không chướng ngại. Đó là ngày thường nghe kinh pháp mà khởi tâm ưa thích cảnh thanh tịnh và chán ghét cảnh uế nhiễm, quán tưởng huân tập lâu ngày mà hóa thành như thế, chứ không phải là đã chứng bậc thánh. Nếu hành giả gặp cảnh giới này mà không bám chặt, không cho là mình đã chứng bậc thánh, thì đó là cảnh giới thiện tường; nếu tự đắc mà cho là mình đã chứng bậc thánh, liền rơi vào tà kiến.

Cũng ở trong tâm định này, suy cứu đến những cảnh sâu xa, bỗng ở giữa đêm, hành giả thấy những cảnh tượng ở phương xa, nào chợ búa, giếng nước, đường lớn, hẻm nhỏ, nào bà con quyến thuộc; và

nghe cả lời nói ở những nơi ấy. Đó là do tâm bị định lực dồn nén, dồn ép đến cùng khiến ánh sáng bay ra mà thấy được chỗ xa cách, chứ không phải là đã chứng bậc thánh. Nếu hành giả gặp cảnh giới này mà không bám chặt, không cho là mình đã chứng bậc thánh, thì đó là cảnh giới thiện tường; nếu tự đắc mà cho là mình đã chứng bậc thánh, liền rơi vào tà kiến.

Cũng ở trong tâm định này, suy cứu đến chỗ tinh thuần cùng cực, hành giả tự thấy mình là một vị thiện tri thức, rồi thấy hình thể biến cải, chốc chốc lại thay đổi hình này dáng nọ một cách vô cớ. Đó là tà tâm. Hành giả phòng hộ tâm không cẩn mật, để cho các giống li mị, thiên ma ám nhập, không duyên cớ mà nói pháp, tuồng như thông đạt diệu nghĩa; nhưng đó chỉ là ma lực sai sử, không phải thật đã chứng bậc thánh. Nếu hành giả gặp cảnh giới này mà không bám chặt, không cho là mình đã chứng bậc thánh, thì đó là cảnh giới thiện tường; nếu tự đắc mà cho là mình đã chứng bậc thánh, liền rơi vào tà kiến.

Này A Nan! Mười cảnh tượng như thế thường hiện ra trong lúc thiền định, đều do hành giả đối với sắc ấm chưa thấu triệt lí tánh, chỉ biết dùng thiền quán dồn nén vọng tưởng, nên hiện ra các việc đó. Chúng sinh mê muội, không tự xét tự lượng, gặp những cảnh tượng ấy thì nhầm lẫn không biết rõ, cho mình đã chứng quả thánh, thành ra mắc tội đại vọng ngữ, phải đọa địa ngục Vô-gián! Sau khi Như Lai diệt độ, quí thầy nên y theo lời dạy này, tuyên bày nghĩa lí cho chúng sinh trong đời mạt pháp; không để cho thiên ma có dịp quấy phá; đó là cách giữ gìn chánh pháp, che chở cho người tu hành thành đạo Vô-thượng.

Này A Nan! Hành giả tu thiền kia, ở trong tâm định, khi các chướng ngại về sắc ấm đã hết rồi, thấy rõ tâm Phật như hình tượng hiện ra trong gương. Như thế là, trí tuệ thì dường như đã có, nhưng công dụng cụ thể thì chưa được phát huy; giống như người ngủ bị bóng đè, tay chân y nguyên, thấy nghe không nhầm, vì tâm bị khách tà mà không thể cử động được. Đó là trạng thái trong lúc hành giả tu thiền mà còn bị thọ ấm hạn chế ngăn che. Khi bóng hết đè thì tâm rời thân, trở lại xem mặt mình, đi ở tự do, không bị ngăn ngại. Đó là lúc thọ ấm đã hết, người tu hành bấy giờ mới có thể vượt khỏi kiến trược. Như vậy, xét kĩ lại nguyên do của thọ ấm, thì gốc rễ chính là vọng tưởng hư minh.

Này A Nan! Hành giả kia đang ở trong định, sắc ấm đã hết, tâm rất sáng suốt, thấy rõ tâm Phật; và do đè nén vọng tâm thái quá, bỗng nhiên ở nơi có chúng sinh ở, phát sinh tâm bi vô hạn, xem tất cả các
loài, cho đến muỗi mòng, như con đỏ của mình, lòng sinh thương xót, bất giác chảy nước mắt. Đó là do dụng công đè nén quá mức mà thành tâm bi vậy thôi, chứ không phải là đã chứng thánh; biết rõ thì không có lỗi gì, từ đó luôn giác tỉnh, không mê nữa, lâu dần tự nó sẽ tiêu mất. Nếu lầm tưởng cho rằng mình đã chứng thánh, liền bị giống ma sầu bi xâm nhập vào lòng, thấy người thì thương xót, khóc lóc thảm thiết. Như thế là mất chánh định, sẽ bị chìm đắm.

Lại nữa, này A Nan! Hành giả kia ở trong định, thấy sắc ấm đã hết, thọ ấm tỏ rõ, các hình tướng đẹp đẽ hiện ra trước mắt, cảm kích thái quá, bỗng nhiên từ trong trạng thái đó sinh lòng dũng mãnh vô hạn. Tâm mạnh mẽ nhạy bén, chí ngang bằng chư Phật, vị ấy nghĩ rằng, mình chỉ trong một niệm có thể vượt qua ba a-tăng-kì kiếp. Đó là công dụng quá mẫn nhuệ, ý chí vượt lướt quá mức mà thành ra thế, chứ không phải là đã chứng thánh; biết rõ thì không có lỗi gì, từ đó luôn giác tỉnh không mê nữa, lâu dần tự nó sẽ tiêu mất. Nếu lầm tưởng cho rằng mình đã chứng thánh, liền bị giống ma si cuồng xâm nhập vào lòng, thấy người thì khoe, ngã mạn không cho ai bằng mình; đến nỗi trên thì không thấy có Phật, dưới thì không thấy có người. Như thế là mất chánh định, sẽ bị chìm đắm.

Lại nữa, hành giả kia ở trong định, thấy sắc ấm đã hết, thọ ấm tỏ rõ, hướng tới trước thì chưa có chỗ chứng mới, quay lui lại thì chỗ y cứ cũ đã mất, trí lực suy kém, rơi vào trạng thái lửng lơ, không có gì để nương tựa. Bỗng nhiên tâm sinh vô cùng khô khát, lúc nào cũng chìm lắng nghĩ nhớ cái trạng thái lửng lơ ấy không nguôi, rồi cho như thế là cái đức chuyên cần tinh tấn. Đó là tu hành mà không có trí tuệ, lỗi lầm tự phát sinh, chứ không phải là đã chứng thánh. Nếu lầm tưởng cho rằng mình đã chứng thánh, liền bị giống ma nghĩ nhớ xâm nhập vào lòng, ngày đêm cột cái tâm treo vào một chỗ. Như thế là mất chánh định, sẽ bị chìm đắm.

Lại nữa, hành giả kia ở trong định, thấy sắc ấm đã hết, thọ ấm tỏ rõ, tuệ lực mạnh mẽ nhạy bén, vượt quá định lực, cho đó là tánh Phật bản lai thù thắng, rồi ôm giữ trong tâm, đến nỗi tưởng mình là Phật Tì Lô Giá Na, mới được chút ít đã cho là đủ. Đó là kết quả của sự dụng tâm thái quá, đắm vào tri kiến mà quên suy xét, chứ không phải là đã chứng thánh; biết rõ thì không có lỗi gì. Nếu lầm tưởng cho rằng mình đã chứng thánh, liền bị giống ma hèn kém dễ biết đủ xâm nhập vào lòng, thấy người thì tự xưng là mình đã chứng được đệ nhất nghĩa đế vô thượng. Như thế là mất chánh định, sẽ bị chìm đắm.

Lại nữa, hành giả kia ở trong định, thấy sắc ấm đã hết, thọ ấm tỏ rõ, chỗ chứng mới thì chưa được mà tâm cũ thì đã mất, xem xét hai khoảng trước sau, tự cho mình đã sa vào chỗ nguy hiểm; tâm bỗng sinh ra lo buồn vô hạn, cảm thấy như ngồi giường sắt, như uống thuốc độc, chán nản không còn muốn sống, chỉ mong người khác sát hại mạng mình để sớm được giải thoát. Đó là tu hành mà mất trí tuệ quán chiếu nên thành ra thế, chứ không phải là đã chứng thánh; biết rõ thì không có lỗi gì. Nếu lầm tưởng cho rằng mình đã chứng thánh, liền bị giống ma thường ưu sầu xâm nhập vào lòng, tay cầm dao kiếm tự cắt thịt mình, thích được bỏ mạng; hoặc thường lo buồn, không muốn thấy người nên đi vào ở chốn núi rừng. Như thế là mất chánh định, sẽ bị chìm đắm.

Lại nữa, hành giả kia ở trong định, thấy sắc ấm đã hết, thọ ấm tỏ rõ, ở trong cảnh giới thanh tịnh, tâm được yên ổn, bỗng nhiên niềm vui vô hạn sinh ra, trong tâm mừng rỡ không thể tự dừng. Đó là trạng thái khinh an nhưng không đủ trí tuệ để tự chế tâm mình, chứ không phải là đã chứng thánh; biết rõ thì không có lỗi gì. Nếu lầm tưởng cho rằng mình đã chứng thánh, liền bị giống ma thích vui mừng xâm nhập vào lòng, thấy người thì cười, đứng bên đường ca múa hát xướng, tự bảo rằng mình đã chứng đắc giải thoát vô ngại. Như thế là mất chánh định, sẽ bị chìm đắm.

Lại nữa, hành giả kia ở trong định, thấy sắc ấm đã hết, thọ ấm tỏ rõ, bèn cho như thế là đủ, bỗng nhiên vô cớ mà tâm đại ngã mạn khởi lên, biểu lộ ra đầy đủ nào là mạn, quá mạn, mạn quá mạn, tăng thượng mạn, tà mạn, ngã mạn, và ti liệt mạn. Trong tâm người này còn coi thường cả mười phương chư Phật, huống gì là đối với các hàng Thanh-văn, Duyên-giác! Đó là tự thấy mình tối thắng mà không có đủ trí tuệ để tự kềm chế, chứ không phải là đã chứng thánh; biết rõ thì không có lỗi gì. Nếu lầm tưởng cho rằng mình đã chứng thánh, liền bị giống ma đại ngã mạn xâm nhập vào lòng, không lễ bái chùa tháp, hủy hoại kinh tượng, rồi bảo chúng đàn-việt rằng: “Tượng Phật chỉ là vàng, đồng, đất, gỗ; kinh điển chỉ là lá cây hay da mỏng. Nhục thân đây mới chính là Phật sống chân thường, sao không cung kính lễ bái, mà lại tôn sùng gỗ, đất? Thật là điên đảo!” Những người đàn-việt tin tưởng mãnh liệt vào lời nói ấy, bèn theo gương hành giả kia, đem kinh xé rách, đem tượng đập nát, rồi moi đất chôn bỏ, gây nghi ngờ cho mọi người, phải đọa địa ngục Vô-gián. Như thế là vị hành giả kia đã mất chánh định, sẽ bị chìm đắm.

Lại nữa, hành giả kia ở trong định, thấy sắc ấm đã hết, thọ ấm tỏ rõ, tự tâm tinh thuần sáng suốt, tỏ ngộ tinh lí, mọi sự đều tùy tâm thuận ý, bỗng nhiên trong tâm cảm thấy vô cùng khinh an, rồi tự bảo mình đã thành bậc thánh, được đại tự tại. Đó là do trí tuệ mà có được trạng thái khinh an thanh tịnh, chứ không phải là đã chứng thánh; biết rõ thì không có lỗi gì. Nếu lầm tưởng cho rằng mình đã chứng thánh, liền bị giống ma thích khinh an thanh tịnh xâm nhập vào lòng, tự cho mình công hạnh đã đầy đủ, không cầu tu tiến. Hạng này phần nhiều không khác gì Vô Văn tì kheo, gây nghi ngờ cho chúng sinh để phải đọa địa ngục A-tì. Như thế là vị hành giả kia đã mất chánh định, sẽ bị chìm đắm.

Lại nữa, hành giả kia ở trong định, thấy sắc ấm đã hết, thọ ấm tỏ rõ, tâm tỏ ngộ được tánh rỗng rang sáng suốt của vạn pháp, bỗng nhiên từ trong trạng thái đó, sinh khởi niệm vĩnh viễn đoạn diệt, bác bỏ không có nhân quả, chủ trương ngoan không, cho rằng mọi sự vật không có gì hết, rơi vào chỗ đoạn diệt. Đó là vì chưa chứng thánh nên mới như thế; biết rõ thì không có lỗi gì. Nếu lầm tưởng cho rằng mình đã chứng thánh, liền bị giống ma ngoan không xâm nhập vào lòng, thấy người giữ giới thì hủy báng, gọi đó là tiểu thừa, chứ Bồ-tát đã liễu ngộ tánh không thì cần gì giữ giới! Hành giả ấy thường ở trước đàn việt mà ăn thịt uống rượu, làm điều dâm uế; nhưng vì có sức ma giúp nhiếp phục, khiến cho kẻ đàn việt kia không sinh tâm nghi hoặc hủy báng. Thậm chí, tâm ma thâm nhập lâu ngày, hành giả ấy còn ăn cả phân tiểu, coi phân tiểu cũng như rượu thịt, tất cả đều không; phá hoại luật nghi của Phật, làm cho người khác lầm lạc gây tội. Như thế là hành giả đã mất chánh định, sẽ bị chìm đắm.

Lại nữa, hành giả kia ở trong định, thấy sắc ấm đã hết, thọ ấm tỏ rõ, do đắm trước cái thể tánh sáng suốt rỗng rang, ăn sâu vào xương tủy, bỗng nhiên phát sinh tâm ái vô hạn. Tâm ái cực mạnh thì phát điên, trở thành kẻ tham dục. Đó là do cảnh giới định thâm sâu mà không có trí tuệ để tự giữ gìn, nên lầm nẻo sa vào đường dục, chứ không phải là đã chứng thánh; biết rõ thì không có lỗi gì. Nếu lầm tưởng cho rằng mình đã chứng thánh, liền bị giống ma tham dục xâm nhập vào lòng, một mực bảo rằng tham dục chính là đạo Bồ-đề; lại dạy hàng cư sĩ đồng đều hành dục, gọi những người hành dâm là pháp tử nối dòng. Hạng hành giả như vậy, ở trong đời mạt pháp, nhờ có sức quỉ thần tà ma mà nhiếp phục được những kẻ phàm phu ngu muội, con số đến một trăm, hai trăm, hoặc năm, sáu trăm, thậm chí nhiều đếnngàn, vạn; khi tà ma đã chán, rời bỏ thân thể, thì uy đức liền mất, bèn sa vào lưới pháp luật của quốc gia, còn tội gây nghi ngờ mê lầm cho chúng sinh thì sẽ bị đọa vào địa ngục Vô-gián. Như thế là hành giả đã mất chánh định, sẽ bị chìm đắm.

Này A Nan! Mười cảnh tượng như thế thường hiện ra trong lúc thiền định, đều do vì thọ ấm chưa trừ, dụng tâm chưa đúng mức, để cho lí tính và dục tính giao chiến, tranh nhau hơn thua, nên hiện ra các việc đó. Chúng sinh mê muội, không tự xét tự lượng, gặp những cảnh tượng ấy thì nhầm lẫn không biết rõ, cho mình đã chứng quả thánh, thành ra mắc tội đại vọng ngữ, phải đọa địa ngục Vô-gián! Sau khi Như Lai diệt độ, quí thầy nên y theo lời dạy này, tuyên bày nghĩa lí cho chúng sinh trong đời mạt pháp được tỏ ngộ; không để cho thiên ma có dịp quấy phá; đó là cách giữ gìn chánh pháp, che chở cho người tu hành thành đạo Vô-thượng.

Này A Nan! Hành giả kia tu định, khi thọ ấm đã hết rồi, tuy chưa trừ sạch các lậu hoặc, nhưng tâm có thể rời khỏi hình hài, như chim ra khỏi lồng. Giai đoạn này đã thành tựu rồi, từ thân phàm phu đây tiến lên, trải qua sáu mươi thánh vị Bồ-tát, được ý-sinh-thân, tùy ý đến đi, không còn ngăn ngại. Ví như có người ngủ mê nói mớ, người ấy tuy không biết gì, nhưng lời nói đã thành âm vận thứ tự, những người đang thức đều hiểu được. Tuy nhiên, trong trường hợp này, hành giả dù được “ý-sinh-thân”, nhưng thật sự vẫn chưa thân chứng, vì vẫn còn bị tưởng ấm hạn chế ngăn che.

Nếu hết động niệm, vọng tưởng tiêu trừ, thì nơi tâm giác ngộ sáng suốt như được quét sạch bụi dơ; cả một dòng sinh tử, từ đầu chí cuối đều chiếu soi rõ ràng. Đó là lúc tưởng ấm đã hết, người tu hành bấy giờ mới có thể vượt khỏi phiền não trược. Như vậy, xét kĩ lại nguyên do của tưởng ấm, thì gốc rễ chính là vọng tưởng dung thông, đan dệt nhau vọng thành.

Này A Nan! Hành giả kia ở trong cảnh giới đã hết thọ ấm, không còn mắc phải tà lự, diệu định viên thông phát sáng; bỗng nhiên ở trong tâm định khởi lên niệm tưởng, yêu thích sự sáng suốt tròn đầy, tư duy tinh nhạy, tham cầu thiện xảo. Thiên ma chỉ chờ có được cơ hội này để khuấy phá, bèn gá tinh thần vào thân một người nào đó, miệng nói kinh pháp. Người này không biết mình bị ma nhập, tự cho rằng mình đã chứng được niết bàn vô thượng, liền đi đến chỗ vị hành giả cầu thiện xảo kia, trải pháp tọa ngồi thuyết pháp. Trong chốc lát, người ấy biến hóa nhiều hình dạng cho vị hành giả kia thấy: lúc thì hiện thân tì kheo, lúc thì hiện thân Đế Thích, lúc thì thân phụ nữ, lúc thì thân tì kheo ni, lúc thì ở trong nhà tối mà thân có hào quang sáng ngời. Hành giả kia mê dại, lầm cho đó là Bồ-tát, tín cẩn nghe lời dạy bảo, chánh tâm bị lay chuyển, phá hủy luật nghi của Phật, trong tối tăm làm chuyện tham dục. Miệng người ma ưa nói những chuyện cát hung quái đản: lúc thì nói có đức Như Lai ra đời chỗ nọ chỗ kia, lúc thì nói sắp có nạn đao binh xảy ra, cốt làm cho người ta sợ hãi, khiến cho gia sản vô cớ mà hao tán. Đó là giống quái quỉ sống lâu năm thành ma, quấy phá người tu hành; khi quấy phá chán rồi, bèn rời khỏi thân người bỏ đi, thì cả thầy lẫn đệ tử đều bị rơi vào lưới pháp luật của quốc gia. Hành giả nếu biết trước đó là ma để không bị mê hoặc, thì không bị rơi vào vòng luân hồi; nếu mê muội không biết, nhất định sẽ bị đọa vào địa ngục Vô-gián.

Lại nữa, này A Nan! Hành giả kia ở trong cảnh giới đã hết thọ ấm, không còn mắc phải tà lự, diệu định viên thông phát sáng; bỗng nhiên ở trong tâm định khởi lên niệm tưởng yêu thích thần thông du hí tự tại, phấn chấn tinh thần, tư duy nghiên cứu, tham cầu kinh lịch các quốc độ. Thiên ma chỉ chờ có được cơ hội này để khuấy phá, bèn gá tinh thần vào thân một người nào đó, miệng nói kinh pháp. Người này không biết mình bị ma nhập, tự cho rằng mình đã chứng được niết bàn vô thượng, liền đi đến chỗ vị hành giả cầu du hí kia, trải pháp tọa ngồi thuyết pháp. Người ấy thân hình không biến đổi, nhưng vị hành giả nghe pháp kia bỗng nhiên thấy mình ngồi trên hoa sen báu, toàn thân hóa thành sắc vàng tía sáng chói; tất cả thính chúng, mỗi mỗi cũng thấy như vậy, đều cho là việc chưa từng có. Hành giả mê dại, lầm tưởng người ma kia là Bồ-tát, bèn tín cẩn nghe lời dạy bảo, tâm buông lung giong ruổi, phá hủy luật nghi của Phật, trong tối tăm làm chuyện tham dục. Miệng người ma ưa nói những chuyện quái đản, như nói chư Phật sẽ ứng hiện ra đời, hoặc nói người đó ở chỗ đó là hóa thân của đức Phật đó, người kia sắp đến đây tức là vị Bồ-tát kia đến để giáo hóa nhân gian. Hành giả nghe thế thì sinh lòng khát ngưỡng, tà kiến kín đáo nổi lên, trí tuệ tiêu mất. Đó là giống bạt quỉ sống lâu năm thành ma, quấy phá người tu hành; khi quấy phá chán rồi, bèn rời khỏi thân người bỏ đi, thì cả thầy lẫn đệ tử đều bị rơi vào lưới pháp luật của quốc gia. Hành giả nếu biết trước đó là ma để không bị mê hoặc, thì không bị rơi vào vòng luân hồi; nếu mê muội không biết, nhất định sẽ bị đọa vào địa ngục Vô-gián.

Lại nữa, hành giả kia ở trong cảnh giới đã hết thọ ấm, không còn mắc phải tà lự, diệu định viên thông phát sáng; bỗng nhiên ở trong tâm định khởi lên niệm tưởng yêu thích khế hợp kín đáo, bèn lắng đọng tinh thần, dứt bặt tư duy, tham cầu khế hợp. Thiên ma chỉ chờ có được cơ hội này để khuấy phá, bèn gá tinh thần vào thân một người nào đó, miệng nói kinh pháp. Người này không biết mình bị ma nhập, tự cho rằng mình đã chứng được niết bàn vô thượng, liền đi đến chỗ vị hành giả cầu khế hợp kia, trải pháp tọa ngồi thuyết pháp. Thân hình người ấy cùng với những người nghe pháp, bề ngoài không có gì biến đổi, nhưng lại khiến cho thính giả, trước khi nghe pháp, tâm tự nhiên khai ngộ, niệm niệm dời đổi: hoặc được túc mạng thông, hoặc được tha tâm thông, hoặc thấy cảnh địa ngục, hoặc biết rõ các việc tốt xấu ở nhân gian, hoặc miệng nói kệ, hoặc tự tụng kinh, mỗi mỗi đều vui vẻ, được điều chưa từng có. Hành giả kia mê dại, lầm tưởng đó là Bồ-tát, tâm sinh luyến ái triền miên, tín cẩn nghe lời dạy bảo, phá hủy luật nghi của Phật, trong tăm tối làm chuyện tham dục. Miệng người ma ưa nói những chuyện quái đản: như nói Phật có lớn có nhỏ, hay Phật này là Phật trước, Phật kia là Phật sau, rồi lại có Phật thật Phật giả, Phật nam Phật nữ; Bồ-tát cũng vậy. Hành giả kia thấy thế thì rất tín mộ, bỏ mất bản tâm tu tập, rơi vào tà kiến. Đó là giống mị quỉ sống lâu năm thành ma, quấy phá người tu hành; khi quấy phá chán rồi, bèn rời khỏi thân người bỏ đi, thì cả thầy lẫn đệ tử đều bị rơi vào lưới pháp luật của quốc gia. Hành giả nếu biết trước đó là ma để không bị mê hoặc, thì không bị rơi vào vòng luân hồi; nếu mê muội không biết, nhất định sẽ bị đọa vào địa ngục Vô-gián.

Lại nữa, hành giả kia ở trong cảnh giới đã hết thọ ấm, không còn mắc phải tà lự, diệu định viên thông phát sáng; bỗng nhiên ở trong tâm định khởi lên niệm tưởng muốn biết tận tường gốc rễ, muốn xét rõ thỉ chung của sự biến hóa nơi sự vật, bèn phấn chấn tinh thần, đem hết tâm lực tham cầu phân tích biện biệt. Thiên ma chỉ chờ có được cơ hội này để khuấy phá, bèn gá tinh thần vào thân một người nào đó, miệng nói kinh pháp. Người này không biết mình bị ma nhập, tự cho rằng mình đã chứng được niết bàn vô thượng, liền đi đến chỗ vị hành giả cầu biết nguồn cội kia, trải pháp tọa ngồi thuyết pháp. Người này có uy thần, khuất phục ngay những người cầu nghe pháp, khiến cho họ, tuy chưa nghe pháp mà tự nhiên tâm đã kính phục. Người đó bảo rằng: “Bồ đề, niết bàn và pháp thân Phật chính là nhục thân của chúng ta đây; cha cha con con đời đời sinh nhau không dứt, đó chính là pháp thân thường trú; cảnh giới hiện tại trước mắt đây chính là Phật quốc, chứ không có cõi tịnh cư hay tướng sắc vàng nào khác ở đâu cả.”. Hành giả kia tín thọ lời dạy của ma, bỏ mất bản tâm tu tập, đem thân mạng qui y tà ma, cho là được điều chưa từng có. Cả bọn đó đều mê dại, lầm tưởng ma là Bồ-tát, suy xét tâm mình để thuận theo lời dạy bảo, phá hủy luật nghi của Phật, trong tăm tối làm chuyện tham dục. Miệng người ma ưa nói những lời quái đản, như nói mắt tai mũi lưỡi đều là tịnh độ; hai căn nam nữ là nơi chân thật của bồ đề niết bàn. Nhưng hành giả kia không biết đó là những lời nói dơ dáy, cứ một mực tin theo. Đó là giống cổ độc và yểm thắng ác quỉ sống lâu năm thành ma, quấy phá người tu hành; khi quấy phá chán rồi, bèn rời khỏi thân người bỏ đi, thì cả thầy lẫn đệ tử đều bị rơi vào lưới pháp luật của quốc gia. Hành giả nếu biết trước đó là ma để không bị mê hoặc, thì không bị rơi vào vòng luân hồi; nếu mê muội không biết, nhất định sẽ bị đọa vào địa ngục Vô-gián.

Lại nữa, hành giả kia ở trong cảnh giới đã hết thọ ấm, không còn mắc phải tà lự, diệu định viên thông phát sáng; bỗng nhiên ở trong tâm định khởi lên niệm tưởng yêu thích sự cảm ứng huyền nhiệm, bèn để hết tâm lực nghiên cứu tinh tế biến khắp mọi hiện tượng, mong cầu thánh duyên cảm ứng. Thiên ma chỉ chờ có được cơ hội này để khuấy phá, bèn gá tinh thần vào thân một người nào đó, miệng nói kinh pháp. Người này không biết mình bị ma nhập, tự cho rằng mình đã chứng được niết bàn vô thượng, liền đi đến chỗ vị hành giả cầu cảm ứng kia, trải pháp tọa ngồi thuyết pháp; khiến cho thính chúng nhất thời thấy thân ông ta như từng sống lâu đến trăm ngàn tuổi, tâm sinh yêu mến không thể rời xa; nguyện đem thân mình làm nô bộc cho ông ta, cúng dường đầy đủ các thứ cần dùng mà không biết mệt mỏi. Người ấy lại khiến cho tâm mỗi người nghe pháp đều biết ông ta là bậc tiên sư, là vị thiện tri thức của họ, yêu quí lời dạy bảo, khắng khít như keo sơn, được điều chưa từng có. Hành giả kia mê dại, lầm tưởng đó là Bồ-tát, gần gũi tâm ma, phá hủy luật nghi của Phật, trong tăm tối làm chuyện tham dục. Miệng người ma ưa nói những chuyện cát hung quái đản, như nói: “Ta kiếp trước sinh ở chỗ đó, trước độ cho người đó, đương thời là thê thiếp anh em của ta. Nay ta cùng các ngươi cũng vốn có túc duyên, nên đặc biệt đến đây độ cho nhau; ta sẽ cùng các ngươi đi về thế giới kia, cúng dường đức Phật kia.” Hoặc người ma đó nói rằng, đặc biệt có cõi trời Đại-quang-minh, là nơi cư trú nghỉ ngơi của chư Phật. Hành giả kia không biết gì, cứ tin vào những lời nói dối gạt ấy, bỏ mất bản tâm tu tập của mình. Đó là giống lệ quỉ sống lâu năm thành ma, quấy phá người tu hành; khi quấy phá chán rồi, bèn rời khỏi thân người bỏ đi, thì cả thầy lẫn đệ tử đều bị rơi vào lưới pháp luật của quốc gia. Hành giả nếu biết trước đó là ma để không bị mê hoặc, thì không bị rơi vào vòng luân hồi; nếu mê muội không biết, nhất định sẽ bị đọa vào địa ngục Vô-gián.

Lại nữa, hành giả kia ở trong cảnh giới đã hết thọ ấm, không còn mắc phải tà lự, diệu định viên thông phát sáng; bỗng nhiên ở trong tâm định khởi lên niệm tưởng yêu thích sự khế nhập sâu xa, bèn ép mình khắc khổ, thích ở chỗ u tịch, tham cầu sự tĩnh mịch. Thiên ma chỉ chờ có được cơ hội này để khuấy phá, bèn gá tinh thần vào thân một người nào đó, miệng nói kinh pháp. Người này không biết mình bị ma nhập, tự cho rằng mình đã chứng được niết bàn vô thượng, liền đi đến chỗ vị hành giả cầu tĩnh mịch kia, trải pháp tọa ngồi thuyết pháp; khiến cho những người nghe, mỗi người đều tự biết nghiệp đời trước của mình, rồi bảo một người ở ngay nơi đó rằng: “Ngươi nay chưa chết mà đã làm súc sinh!” Nói thế xong, lại bảo một người khác đạp lên cái đuôi ở đằng sau người này, khiến cho người này đứng dậy không được. Thấy vậy, cả thính chúng đều hết lòng khâm phục; ai vừa khởi tâm gì, người ma ấy biết ngay. Nó dối hiện như người tu hành nghiêm cẩn, ngoài luật nghi của Phật, còn tỏ ra rất tinh cần khắc khổ; rồi chê bai chư vị tì kheo, mắng chửi đồ chúng, phô bày việc xấu của người khác, không tránh hiềm khích. Miệng ma ưa nói những việc họa phúc chưa xảy ra, và đến khi xảy ra thì mảy may không sai. Đó là giống đại lực quỉ sống lâu năm thành ma, quấy phá người tu hành; khi quấy phá chán rồi, bèn rời khỏi thân người bỏ đi, thì cả thầy lẫn đệ tử đều bị rơi vào lưới pháp luật của quốc gia. Hành giả nếu biết trước đó là ma để không bị mê hoặc, thì không bị rơi vào vòng luân hồi; nếu mê muội không biết, nhất định sẽ bị đọa vào địa ngục Vô-gián.

Lại nữa, hành giả kia ở trong cảnh giới đã hết thọ ấm, không còn mắc phải tà lự, diệu định viên thông phát sáng; bỗng nhiên ở trong tâm định khởi lên niệm tưởng yêu thích sự thấy biết sâu rộng, bèn ra sức nghiên cứu tìm tòi, cầu biết túc mạng. Thiên ma chỉ chờ có được cơ hội này để khuấy phá, bèn gá tinh thần vào thân một người nào đó, miệng nói kinh pháp. Người này không biết mình bị ma nhập, tự cho rằng mình đã chứng được niết bàn vô thượng, liền đi đến chỗ vị hành giả cầu biết túc mạng kia, trải pháp tọa ngồi thuyết pháp. Ở nơi thuyết pháp đó, bỗng nhiên người ma ấy có được viên ngọc báu lớn; rồi biến hóa làm súc sinh, miệng ngậm viên ngọc kia cùng các thứ như châu báu đủ màu, tín phù, sách viết trên thanh tre hay thanh gỗ, và nhiều vật kì lạ khác; trước đem trao cho vị hành giả kia, sau thì đeo nơi mình. Người ma ấy lại khoe với thính chúng, có hạt châu minh nguyệt chôn ở dưới đất, đang chiếu sáng chỗ đó; thính chúng cho là điều chưa từng có. Ma thường ăn dược thảo, không ăn cơm, có lúc mỗi ngày chỉ ăn một hạt mè hoặc một hạt lúa, nhưng nhờ sức ma duy trì mà thân hình vẫn béo tốt. Ma lại chê bai chư vị tì kheo, mắng chửi đồ chúng, không tránh hiềm khích. Miệng người ma ưa nói những chuyện quái đản như có nhiều kho báu ở các phương khác, hoặc chốn ẩn cư của các bậc hiền thánh mười phương. Những người đi theo sau ma, thường thấy nhiều người kì lạ. Đó là những loại quỉ thần ở sông núi, hay thổ địa thành hoàng nơi núi rừng, sống lâu năm thành ma, khi thì cổ võ cho sự dâm dục, phá giới luật của Phật, trong tăm tối cùng kẻ thừa sự cùng vui hưởng ngũ dục; có lúc lại chuyên cần tinh tấn, ăn thuần cỏ lá, hành sự không nhất định, cốt quấy phá người tu hành; khi quấy phá chán rồi, bèn rời khỏi thân người bỏ đi, thì cả thầy lẫn đệ tử đều bị rơi vào lưới pháp luật của quốc gia. Hành giả nếu biết trước đó là ma để không bị mê hoặc, thì không bị rơi vào vòng luân hồi; nếu mê muội không biết, nhất định sẽ bị đọa vào địa ngục Vô-gián.

Lại nữa, hành giả kia ở trong cảnh giới đã hết thọ ấm, không còn mắc phải tà lự, diệu định viên thông phát sáng; bỗng nhiên ở trong tâm định khởi lên niệm tưởng yêu thích sức thần thông biến hóa, bèn nghiên tầm suy cứu nguồn gốc của sự biến hóa để mong thủ đắc thần lực. Thiên ma chỉ chờ có được cơ hội này để khuấy phá, bèn gá tinh thần vào thân một người nào đó, miệng nói kinh pháp. Người này không biết mình bị ma nhập, tự cho rằng mình đã chứng được niết bàn vô thượng, liền đi đến chỗ vị hành giả cầu thần thông kia, trải pháp tọa ngồi thuyết pháp. Người ma ấy một tay cầm ngọn lửa, tay kia bốc lửa chia để trên đầu từng người nghe pháp; ngọn lửa trên đầu mỗi người đều cao đến vài thước, nhưng đầu không bị cháy, cũng không cảm thấy nóng. Người ấy lại đi trên mặt nước như đi trên đất bằng; hoặc ngồi yên bất động trên hư không; hoặc vào trong chiếc bình; hoặc ở trong cái đãy; hoặc vượt cửa sổ, đi xuyên qua tường mà không bị ngăn ngại; chỉ đối với đao binh thì không được tự tại. Người ấy cũng tự bảo mình là Phật, thân mặc áo trắng, nhận sự lễ bái của các tì kheo, chê bai pháp môn tu thiền và hành trì giới luật, mắng chửi đồ chúng, bươi móc chuyện xấu của người, không tránh hiềm khích. Miệng người ma ưa nói những chuyện mê hoặc, như nói những chuyện về thần thông tự tại, hoặc khiến cho mọi người thấy Phật độ ở ngay bên cạnh. Đó là do ma lực mê hoặc người, hoàn toàn không chân thật. Người ma ấy chuyên ca ngợi sự hành dâm, làm toàn những việc thô tục, đem những hành động bỉ ổi sàm sỡ gọi đó là truyền pháp. Đó là những loài có sức lớn trong trời đất như sơn tinh, hải tinh, phong tinh, hà tinh, thổ tinh; hoặc những loài cây cỏ kì dị sống trải bao đời kiếp, hấp thụ tinh hoa của trời đất mà hóa thành tinh mị; hoặc các loài rồng hóa thành yêu mị; hoặc các tiên nhân chết rồi sống lại làm yêu mị; hoặc các tiên nhân quả báo đã hết, đến ngày đáng lẽ phải chết, nhưng hình hài không tiêu, bị loài yêu quái khác nhập vào, hóa thành yêu nghiệt; tất cả những giống ấy sống lâu năm thành ma, quấy phá người tu hành; khi quấy phá chán rồi, bèn rời khỏi thân người bỏ đi, thì cả thầy lẫn đệ tử đều bị rơi vào lưới pháp luật của quốc gia. Hành giả nếu biết trước đó là ma để không bị mê hoặc, thì không bị rơi vào vòng luân hồi; nếu mê muội không biết, nhất định sẽ bị đọa vào địa ngục Vô-gián.

Lại nữa, hành giả kia ở trong cảnh giới đã hết thọ ấm, không còn mắc phải tà lự, diệu định viên thông phát sáng; bỗng nhiên ở trong tâm định khởi lên niệm tưởng yêu thích vào chỗ tịch diệt, bèn nghiên cứu tinh tường cùng cực cái thể tánh của vạn hóa, mong cầu cái rỗng không sâu nhiệm. Thiên ma chỉ chờ có được cơ hội này để khuấy phá, bèn gá tinh thần vào thân một người nào đó, miệng nói kinh pháp. Người này không biết mình bị ma nhập, tự cho rằng mình đã chứng được niết bàn vô thượng, liền đi đến chỗ vị hành giả cầu rỗng không kia, trải pháp tọa ngồi thuyết pháp. Ở trong thính chúng, người ấy bỗng nhiên biến mất thành không, cả chúng không ai thấy gì; rồi từ không đột nhiên lại hiện ra; muốn có muốn không đều tự tại. Người ấy còn biến hiện thân mình trong suốt như ngọc lưu li, hoặc duỗi tay chân phát ra mùi hương chiên đàn, hoặc đại tiểu tiện ngọt và cứng chắc như đường phèn; rồi còn chê bai giới luật, khinh rẻ người xuất gia. Miệng người ma ưa nói những điều mê hoặc, như nói không nhân không quả, chết là vĩnh viễn đoạn diệt, không có thân sau; hoặc nói chư vị thánh phàm tuy chứng được không tịch, vẫn hành dâm vô ngại, những người hưởng thụ tham dục cũng được tâm không; cũng bác không có nhân quả. Đó là mặt trời mặt trăng, trong lúc che khuất nhau, tinh khí thấm vào đất, những loại như vàng, ngọc, cỏ chi, lân, phụng, rùa, hạc hấp thụ được, có thể sống lâu trải ngàn vạn năm mà trở thành tinh linh, sinh ra trong cõi nước, lại sống lâu năm thành ma, quấy phá người tu hành; khi quấy phá chán rồi, bèn rời khỏi thân người bỏ đi, thì cả thầy lẫn đệ tử đều bị rơi vào lưới pháp luật của quốc gia. Hành giả nếu biết trước đó là ma để không bị mê hoặc, thì không bị rơi vào vòng luân hồi; nếu mê muội không biết, nhất định sẽ bị đọa vào địa ngục Vô-gián.

Lại nữa, hành giả kia ở trong cảnh giới đã hết thọ ấm, không còn mắc phải tà lự, diệu định viên thông phát sáng; bỗng nhiên ở trong tâm định khởi lên niệm tưởng muốn được trường thọ, bèn khổ công nghiên cứu, mong cầu sống mãi; dứt bỏ đời sống phần đoạn, chóng được đời sống biến dịch, được thân tướng vi tế thường trụ. Thiên ma chỉ chờ có được cơ hội này để khuấy phá, bèn gá tinh thần vào thân một người nào đó, miệng nói kinh pháp. Người này không biết mình bị ma nhập, tự cho rằng mình đã chứng được niết bàn vô thượng, liền đi đến chỗ vị hành giả cầu trường thọ kia, trải pháp tọa ngồi thuyết pháp. Người ma ấy nói, có thể đi đến một phương nào thật xa rồi trở về không trở ngại; dù nơi xa vạn dặm, chỉ trong nháy mắt có thể đến đó lấy một vật đem về. Hoặc ở một nơi nào đó, trong một căn nhà rộng chỉ vài bước, người ma ấy bảo một người nào đó đi thử từ vách phía Đông sang vách phía Tây, người này đi thật nhanh mà cả năm không tới. Hành giả thấy thế rất tin phục, nghĩ rằng người ma kia là Phật hiện tiền. Miệng người ma ưa nói những điều mê hoặc, như nói “Mười phương chúng sinh đều là con của ta; ta sinh ra chư Phật; ta sinh ra thế giới; ta là đức Phật đầu tiên, tự sinh ra đời, không phải do tu hành mà đắc đạo.” Đó là thiên ma ở cõi trời Tha-hóa-tự-tại sai khiến bọn quyến thuộc chưa phát thiện tâm, như dịch sử quỉ Giá Văn Trà, hay quỉ Tì Xá Già thuộc cõi Tứ-vương thiên, bọn này nhân lúc người tu hành được tâm định rỗng không sáng suốt nhưng phát sinh tà kiến, bèn tới ăn tinh khí. Hoặc không phải do người ma nọ, mà chính vị hành giả kia nhìn thấy ma vương hiện thân, miệng khoe nắm được thuật cường tráng như kim cương, ban cho hành giả sự trường thọ; rồi lại hiện thân mĩ nữ, cám dỗ hành giả hành sự dâm dục, chưa đến một năm thì gan óc khô kiệt, miệng nói lầm bầm một mình, nghe như yêu mị. Như trước kia vì không rõ ông thầy thuyết pháp là người bị ma nhập, nên khi ma chán bỏ đi thì thầy trò phải sa lưới pháp luật; còn giờ đây, hành giả không do ông thầy ma mà tự mình tham hành dâm dục với gái đẹp, thì chưa đợi bị hình phạt của pháp luật, mà đã phải chết khô trước rồi! Thế là ở cả hai trường hợp, người tu hành đều bị ma vương phá hoại, đến nỗi mất mạng! Hành giả nếu biết trước đó là ma để không bị mê hoặc, thì không bị rơi vào vòng luân hồi; nếu mê muội không biết, nhất định sẽ bị đọa vào địa ngục Vô-gián.

Này A Nan! Thầy nên biết, mười giống ma đó, ở trong đời mạt pháp, có thể giả làm người xuất gia tu hành trong giáo pháp của Như Lai, hoặc gá nhập vào thân xác người ta, hoặc tự hiện nguyên hình, đều tự xưng là đã thành bậc Chánh Biến Tri Giác, ca ngợi sự dâm dục, phá luật nghi của Phật. Cả ma thầy và ma đệ tử đều lấy sự dâm dục truyền thọ cho nhau; cứ như thế, yêu tinh tà mị mê hoặc lòng dạ, ít thì cũng trải chín đời, nhiều thì trăm đời, khiến cho những người tu hành, dù cho chân chánh, rốt cuộc cũng đều trở thành quyến thuộc của ma vương; sau khi mạng chung phải làm dân ma, mất hết chánh trí, đọa vào địa ngục Vô-gián.

Thầy chưa nên vội an hưởng niết bàn tịch diệt ngay bây giờ. Dù chứng được quả vị Vô-học, thầy

cũng nên giữ tâm nguyện vào trong đời mạt pháp, phát khởi tâm đại từ bi cứu độ chúng sinh, khiến cho họ có được tâm địa chân chánh, có được lòng tin sâu sắc nơi Phật pháp, không mắc vào lưới ma, được chánh tri kiến. Nay Như Lai đã độ thầy thoát khỏi sinh tử, thầy hãy vâng lời Phật dạy, thế gọi là báo đáp ơn Phật.

Này A Nan! Mười cảnh ma như thế hiện ra trong thiền định, đều do tưởng ấm ngăn che mà sinh ra. Sức quán chiếu và vọng tưởng giao chiến nhau trong tâm, vì vọng tưởng thắng nên sinh ra những cảnh tượng ấy. Chúng sinh ngu muội, ngoan cố, không tự xét tự lượng, gặp những cảnh tượng ấy thì nhầm lẫn không biết rõ, cho mình đã chứng quả thánh, thành ra mắc tội đại vọng ngữ, phải đọa địa ngục Vô-gián! Sau khi Như Lai diệt độ, quí thầy nên y theo lời dạy này, tuyên bày nghĩa lí cho chúng sinh trong đời mạt pháp được tỏ ngộ; không để cho thiên ma có dịp quấy phá; đó là cách giữ gìn chánh pháp, che chở cho người tu hành thành đạo Vô-thượng.

Tuesday, November 3, 2015

Những giai thoại linh ứng về ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ tát

Những giai thoại linh ứng về ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ tát

I. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát

1. Có ba tên là: 1) Diệu Đức (Văn Thù Sư Lợi) vì có đầy đủ tất cả công đức vi diệu bất khả tư nghị.

2) Diệu Thủ (Mãn Thù Thi Lợi) vì có đầy đủ tất cả công đức vi diệu bất khả tư nghị đứng đầu trong hàng chư Bồ tát. 3) Diệu Cát Tường (Mạn Thù Thất Lợi) vì có đầy đủ tất cả công đức vi diệu cát tường bất khả tư nghị.

Ngoài ra còn dịch là Diệu Lạc, Pháp Vương Tử, Văn Thù Sư Lợi Đồng Chân, Nhu Đồng Văn Thù Bồ Tát.

2. Tam Muội mà Văn Thù Sư Lợi và quyến thuộc của ngài (thông thường là Thiện Tài Đồng Tử, Ưu Điền Vương, Phật Đà Ba Lợi Tam Tạng và Tối Thắng Lão Nhân) trú là Tam Muội làm phát khởi được Vô Tướng Diệu Huệ, gọi là Văn Thù Tam Muội.

Ưu Điền Vương nói đủ là Ôn Đà Diễn Na Phạt Sa (Udayanavatsa), là vua nước Kiều Thường Di, do vì Vương hậu sùng tín nên vua trở thành một đại ngoại hộ của đức Phật. Theo Tăng Nhất A Hàm Kinh quyển 28 có ghi khi Phật lên cung trời Tam Thập Tam thiên để nói Pháp cho mẹ, trong thời gian ấy vua Ưu Điền phiền muộn vì không được lễ bái Phật đến phát sinh bệnh, nên các quần thần mới lấy gỗ chiên đàn ở núi Ngưu Đầu mà tạo thành một tôn tượng Phật cho vua chiêm bái, vua mới khỏi bệnh. Đó là khởi thủy cho truyền thống tạo tượng tại Ấn Độ. Trong Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân quyển 3, Kinh Quán Phật Tam Muội Hải quyển 6, Kinh Đại Thừa Tạo Tượng Công Đức quyển thượng, đều có nói như vậy. Riêng các Kinh Tạo Lập Hình Tượng Phúc Báo và Kinh Tác Phật Hình Tượng thì chỉ nói là năm vua 14 tuổi đến nơi Phật hỏi về công đức tạo tượng mà thôi. Theo Kinh Ưu Điền Vương, thì Vương hậu quy y Phật chứng quả Tu Đà Hoàn. Vua Ưu Điền nghe lời sàm tấu của Vô Tỷ phu nhân bắt trói Hoàng hậu dùng trăm mũi tên cùng bắn một lúc để xử tử. Song trăm mũi tên đều bay nhiễu Hoàng hậu ba vòng rồi bay trở về trước vua. Vua kinh sợ, vội mang Vô Tỷ phu nhân đến nơi Phật sám hối, thọ nhận sự giáo hóa của đức Phật và quy y Tam Bảo.

3. Sơn Tây Ngũ Đài Sơn được coi là nơi cư trú của Văn Thù Sư Lợi là do nơi Phẩm Bồ Tát Trú Xứ trong Lục Thập Hoa Nghiêm Kinh truyền nói là Văn Thù Bồ Tát ở tại núi Thanh Lương phía đông bắc mà ra.

Đại Hoa Nghiêm Kinh nói: ở phương đông bắc có một nơi gọi là Thanh Lương Sơn, từ xưa đến nay các chúng Bồ Tát thường cư trụ ở nơi ấy. Hiện nay có Bồ Tát tên Văn Thù Sư Lợi cùng với quyến thuộc, các chúng Bồ Tát gồm mười ngàn người, thường ở nơi ấy mà nói Pháp.

Lại Kinh Bảo Tạng Đà La Ni có nói: Phật bảo Kim Cương Mật Tích Chủ rằng: Sau khi ta diệt độ, ở phương đông bắc của Nam Thiệm Bộ Châu có nước tên là Đại Chấn Na, nước ấy có tòa núi gọi là Ngũ Đỉnh. Văn Thù Đồng Tử vân du cư ngụ tại đó để thuyết Pháp cho chúng sinh, và có vô lượng thiên long bát bộ trời rồng vây quanh cúng dường.

Vào thời Hậu hay Tây Hán (25 ~ 220) Minh Đế, Nhiếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan, là các bậc thánh tứ quả, khi mới đặt chân đến Trung Hoa, các ngài dùng thiên nhãn quán sát, biết ngay ngọn núi này là nơi ngài Văn Thù cư ngụ, và có tháp xá lợi Phật do vua A Dục kiến lập.

Truyện như sau: Ma Đằng, Pháp Lan hai vị Bồ Tát dùng thiên nhãn quán thấy hữu tình ở Trung Hoa có căn khí đại thừa, nay đã thành thục, lại quán biết Ngũ Đài là nơi Văn Thù cư ngụ, song thánh giáo chưa sang, thế nên không mấy kẻ biết quy về. Thế nên hai ngài mang hình tượng của Phật Thích Ca và Kinh Tứ Thập Nhị Chương sang Trung Hoa. Vào lúc ấy, Hán Hiếu Minh Đế đêm nằm mộng thấy một người vàng, thân cao lớn, sáng chói như mặt trời, đi đến nơi sân điện. Sáng ra cho người đoán mộng, người đoán mộng cho rằng đó chính là bậc thánh nhân mà trong sách Chu Thư Dị Ký có ghi là xuất hiện ở phương tây và đã mất cả ngàn năm nay rồi, song giáo pháp của ngài ấy sẽ đến nơi đây. Đế sai phái đoàn Vương Tuân mười tám người sang phương tây tìm hỏi. Các vị này đến nước Nguyệt Thị gặp Ma Đằng và Pháp Lan mới thỉnh về đất Hán. Cả đi và về ba năm trời mới tới Lạc Dương. Hai ngài dâng Kinh và hình tượng lên, vua mở ra xem thì quả giống với người trong mộng. Vua kể lại giấc mộng. Hai ngài nói: "Như Lai đây đem đại Pháp giao lại cho Bệ hạ, mong Bệ hạ chu toàn." Đế hỏi: "Pháp Vương ra đời mà sao không tác động đến nơi đây?" Đáp: "Đại Thánh ứng phải đúng theo thời, hiện hình phải theo cơ cảm. Xứ kia là trung tâm của đại thiên thế giới, quần linh đều tập về, căn khí trước đã thuần thục. Căn cơ các nơi khác còn chưa cảm, thế nên Phật không ứng. Ví như ao lắng trong thì trăng hiện sáng, bằng không thì trăng mờ, phải đâu là lỗi của trăng. Vả lại giáo quang chiếu đến có nơi mau nơi chậm, cũng là tùy theo sao cho thích ứng vậy." Đế hỏi: "Xứ này chả lẽ không có thánh nhân nào cư trú để giáo hóa hết hay sao?" Hai ngài đáp: "Xứ này có Ngũ Đài Sơn là nơi Văn Thù đại sĩ cư ngụ, nhiếp hóa vô lượng thiên long quỷ thần, song nếu không có giới định lắng thần thì không thể thấy được." Sau đó hai ngài dịch Kinh Tứ Thập Nhị Chương ra Hán văn, và năm sau đến lễ núi Thanh Lương về tâu lên vua kiến lập già lam. Vì hình thế của núi này giống như núi Linh Thứu, nên lấy đó mà đặt tên cho chùa. Lại vua vừa phát lòng tin vào Phật, nên chùa thêm hai chữ "Đại Phu", phu tức là tin vậy, mà tên chùa thành ra là "Đại Phu Linh Thứu Tự". Sau đó hai ngài độ khoảng mấy chục vị tăng cho trụ tại đó. Chính vì vậy mà các đạo sĩ ở Ngũ Đài như Bạch Lộc mới phối hợp với các đạo sĩ ở Ngũ Nhạc như Trử Thiện Tín v.v... tâu lên vua xin đem Kinh của hai bên ra đốt để phán chân ngụy. Đằng Lan hai ngài để xá lợi Phật vào cùng với Kinh, khiến lửa không cháy được mà xá lợi còn phóng quang chiếu sáng, trong khi Kinh của đạo sĩ thì cháy rụi. Hai ngài còn bay bổng lên hư không hiện mười tám biến hóa, và nói kệ như sau: "Hồ phi sư tử loại, đăng phi nhật nguyệt minh, trì vô cự hải nạp, khâu vô Tung nhạc vinh. Pháp vân thùy pháp giới, Pháp vũ nhuận quần manh, hiển thông hi hữu sự, xứ xứ hóa quần sinh." Sau đó hai ngài quay trở về Ấn Độ.

Vào thời Vũ Văn Chu có một hóa nhân dạo chơi nước này, nói là đến lễ chỗ Phật Ca Diếp nói Pháp và đến nơi cư ngụ của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Khi đến núi này, hiện thành tượng Văn Thù, rồi biến mất trong không. Các người đi theo mới biết đó là hóa thân của ngài Văn Thù.

Vào thời Sơ Đường có vị tăng 99 tuổi hạ tên Sư Tử, đắc tam quả, lặn lội đến lễ bái núi Thanh Lương này.

Đạo Tuyên luật sư đời Đường, đạo hạnh vượt ba cõi, đức trọng trăm loài kính, cảm các người trời thường theo hộ vệ. Ngài thường hay hỏi chư thiên mọi việc xa gần, đều đáp phân minh. Nhờ đó ngài mới biết chắc là núi Thanh Lương là nơi Văn Thù cư ngụ.

Vào năm 769 đời nhà Đường, Tam Tạng Sa Môn Bất Không ở Đại Hưng Thiện Tự tấu thỉnh, vua sắc lệnh nơi Thực Đường, ngoài tôn tượng của Tân Đầu Lô Tôn Giả, còn phải an trí hình tượng của Văn Thù Sư Lợi coi như là Thượng Tọa. Bảy năm sau lại sắc lệnh trong tự viện phải tìm một nơi tốt đẹp để thiết lập Đại Thánh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Viện mà an trí tượng ngài Văn Thù.

Theo Cổ Thanh Lương Truyện, quyển thượng, có ghi Bắc Ngụy Văn Đế vân du Ngũ Đài Sơn, có cho kiến tạo một ngôi chùa ở Trung Đài để thờ tượng Văn Thù.

Tống Cao Tăng Truyện quyển bốn có nói, ngài Khuy Cơ từng tạo một pho tượng Văn Thù Bồ Tát bằng ngọc...

4. Theo Kinh Hoa Nghiêm, Phẩm Nhập Pháp Giới: Di Lặc Bồ Tát nói với Thiện Tài: Đại nguyện của Văn Thù Sư Lợi cho dù vô lượng trăm ngàn na do tha Bồ Tát cũng không phát nổi... Sự thực hành của ngài quảng đại, nguyện của ngài vô biên, làm phát sinh ra tất cả công đức của Bồ Tát, không bao giờ ngừng nghỉ. Thiện nam tử, Văn Thù Sư Lợi vẫn thường là mẹ của vô lượng chư Phật, luôn thường làm thầy của vô lượng Bồ Tát, giáo hóa thành tựu tất cả chúng sinh...

- Văn Thù do trợ giúp Thích Ca Phật giáo hóa chúng sinh, nên đóng vai trò Bồ Tát ở nhân vị. Song thật sự ra, ngài luôn luôn ở quả vị Như Lai trong suốt ba đời. Quá khứ, ngài là Long Chủng Thượng Phật hay còn gọi là Đại Thân Phật, Thần Tiên Phật; hiện tại ngài là Hoan Hỉ Tạng Ma Ni Bảo Tích Phật (theo Ương Quật Ma La Kinh); tương lai, ngài là Phổ Hiện Phật.

- Theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, quyển hạ, thì Văn Thù Bồ Tát chính là Long Chủng Thượng Như Lai tại nam phương Bình Đẳng thế giới thành Phật đã từ lâu xa, thọ bốn trăm bốn mươi vạn năm mới nhập Niết Bàn.

- Theo Xử Thai Kinh, ngài có nói bài kệ: Xưa thầy của Năng Nhân, nay là đệ tử Phật, hai Tôn không cùng hóa, nên ta là Bồ tát.

- Theo Kinh Văn Thù Sư Lợi Bát Niết Bàn: Phật bảo Bạt Đà La: Văn Thù Sư Lợi này do đại từ bi mà sinh vào nước Xá Vệ, trong gia đình Bà la môn Phạn Đức, ở thôn Đa La. Khi sinh ra, phòng ốc trong nhà thành như hoa sen, từ nơi sườn bên phải của mẹ mà sinh, thân màu vàng thẫm, vừa chạm đất đã biết nói, như đồng tử cõi trời, có lọng bảy báu che phủ bên trên, và có mười điềm lành như sau (mà ai thấy hay nghe đều được lợi ích, nên gọi là Diệu Cát Tường):

(1) Trời mưa cam lồ.
(2) Đất vọt bảy báu.
(3) Thóc biến lúa vàng.
(4) Sân trổ hoa sen.
(5) Ánh sáng ngập phòng.
(6) Gà cho con phụng.
(7) Ngựa đẻ lân quý.
(8) Bò sinh nghé trắng.
(9) Heo xổ con rồng.
(10) Voi sáu ngà hiện.

Sau xuất gia học đạo với Thích Ca Mâu Ni Phật.

- Theo Đại Bảo Tích Kinh quyển 60 hạ Văn Thù Sư Lợi Thọ Ký Hội, thì na do tha a tăng kỳ kiếp về trước, ngài đã từng phát 18 đại nguyện nghiêm tịnh Phật quốc, mai sau thành Phật hiệu Phổ Hiện Như Lai, cõi nước ở phương nam có tên là Ly Trần Cấu Tâm thế giới hoặc Vô Cấu thế giới hay Thanh Tịnh Vô Cấu Bảo Trí thế giới. Kinh Pháp Hoa quyển 4, phẩm Đề Bà Đạt Đa cũng tương tợ như vậy. Kinh Bi Hoa quyển 3, phẩm Chư Bồ Tát Bổn Thọ Ký, còn nói thêm, khi A Di Đà Phật còn là chuyển luân vương, thì ngài là vương tử thứ ba, tên Vương Chúng, phát Bồ Đề tâm với Phật Bảo Tạng, nguyện trong tương lai hành Bồ Tát Đạo không cùng tận, để trang nghiêm cõi Phật.

- Theo Tân Hoa Nghiêm Kinh quyển 12, phẩm Như Lai Danh Hiệu có nói về phương đông qua khỏi số thế giới bằng số vi trần trong mười cõi Phật có Kim Sắc thế giới, Phật hiệu Bất Động Trí, Bồ Tát là Văn Thù Sư Lợi.

- Theo Kinh Pháp Hoa, sau khi Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật, thì tám người con đều bỏ theo xuất gia. Phật giảng Pháp Hoa Kinh cho Bồ Tát Diệu Quang. Sau khi Phật nhập diệt, thì tám vương tử đều theo Diệu Quang coi là thầy. Diệu quang giáo hóa cho tám vị tuần tự thành Phật. Vị thứ tám là Nhiên Đăng Phật. Nhiên Đăng Phật lại là thầy của Phật Thích Ca. Nếu vậy thời Văn Thù là tổ chín đời của Phật Thích Ca, vì Diệu Quang Bồ Tát chính là ngài Văn Thù.

5. Thần lực của ngài Văn Thù:

a) Thánh Trí thất thần: Bảo Tạng Kinh kể rằng: Đệ tử của Quang Tướng Phật ở phương đông tên Thánh Trí là bậc đệ nhất thuyết pháp, đứng trên trời Hữu Đỉnh nói pháp, âm thanh bao trùm đại thiên. Văn Thù đến cõi ấy, đứng nơi cõi trời Quang Âm thiên nói Pháp, âm thanh chấn động khắp hết đại thiên thế giới, Ma cung sụp đổ, ác đạo ngưng bặt. Thánh Trí tỳ khưu nghe âm thanh ấy phát sợ hãi hùng, đến mức phải giậm chân xuống đất, ví như gió lốc thổi cuốn chim nhỏ, rớt xuống nhân gian. nhân đó hỏi Phật, Phật đáp: "Văn Thù đại sĩ đã đến đây, oai đức tuyệt vời, bọn các ông không sao bì nổi."

b) Ma vương khiếp đảm hàng phục: Kinh Như Huyễn Tam Muội ghi: Thiện Trụ Ý thiên tử thưa với Văn Thù đồng đến gặp Phật. Văn Thù hiện ra ba mươi hai bộ, lầu các chập chùng với lưới võng trang nghiêm. Có các Bồ Tát đến nơi Phật truớc. Thân Tử nhìn thấy thần biến hỏi Phật, Phật đáp: "Văn Thù trụ vào tam muội Hàng Hủy Chư Ma, sắp đến nơi Phật." Khi Văn Thù trụ vào tam muội này, thời trăm ức ma cung trong đại thiên thế giới đều đồng loạt mở toát ra hết. Chư ma không còn thấy thích thú chỗ mình ở nữa, ai nấy đều bất an. Lúc ấy ma Ba Tuần tự thấy mình như lão già chín mươi, suy yếu hổn hển, chống gậy mà đi, cung nhân mỹ nữ thảy đều già xụm. Cung điện băng hoại, hư không mờ ám. Ba Tuần kinh hãi lông trên thân dựng đứng, trong tâm nghĩ rằng: "Điềm gở gì đây, mà làm cho cung điện của ta suy sụp như vậy? Mạng ta sắp tận hay trời đất gặp kiếp tai sắp bị thiêu chăng?" Lúc ấy ma Ba Tuần trừ hết mọi cống cao, dứt bỏ mọi tư tưởng ác. Có trăm ức thiên tử do Văn Thù hóa ra ở tại lưới võng, đến đứng trước chư Ma, bảo ma Ba Tuần: "Đừng có hãi sợ, thân của các ngươi rốt không có hề gì đâu. Chẳng qua có bậc Bồ Tát đại sĩ bất thối chuyển, tên Văn Thù Sư Lợi, oai đức tuyệt vời nhiếp khắp mười phương, đức quá Tu Di, trí siêu sông biển, huệ vượt hư không. Hiện ngài nhập vào tam muội Hàng Hủy Chư Ma, do oai thần ngài mà ra như vậy." Thời Ma sợ hãi cầu xin tế độ với hóa Bồ Tát. Bồ Tát nói: "Các ngươi hãy đến nơi Thích Ca Mâu Ni Phật, ngài có từ bi vô tận sẽ làm cho các ngươi hết sợ hãi." Nói xong biến mất. Ma liền đến nơi Phật cầu cứu, nói: "Chúng tôi nghe đến tên Văn Thù lòng rất sợ hãi, sợ rằng mình sẽ mất thân mạng" Phật bèn ca ngợi Văn Thù không cùng. Ma mong cầu được thoát, Phật bảo đợi Văn Thù đến. Sau đó Văn Thù đến, Phật bảo hãy tha cho Ma. Văn Thù hỏi Ma: "Ngươi có chán ghét thân này chăng? " Ma đáp rất chán ghét. Văn Thù nói: "Nếu vậy, hãy chán lìa tham dục, không trú nơi ba cõi nữa." Ma cung kính tuân mệnh, thời lập tức thân thể hồi phục lại như xưa.

c) Hàng Ma khất thực cúng chư Tăng: Bảo Khiếp Kinh ghi: Phật tại thành Xá Vệ cùng với tám trăm Tỳ Khưu và hơn vạn Bồ Tát. Trời mưa suốt bảy ngày, không sao đi khất thực được. A Nan cầu Văn Thù cứu giúp chúng. Lúc ấy Văn Thù đang ở trong thất nói Pháp cho trời Đế Thích, không hề rời khỏi chỗ ngồi, mà nhập vào thành khất thực. Ma che kín cửa của đàn na, song do thần lực của Văn Thù mà khiến mọi cửa đều mở ra, lại khiến chính Ma phải nói lên bảo "hãy thí cho Văn Thù, sẽ được phúc vô lượng" Sau khi được đồ ăn rồi, ngài đặt bát xuống đất, bảo Ma đem đi. Ma không sao nhấc nổi bát, thưa: "Thần lực của tôi có thể nhấc nổi núi Sa Đà, nay chỉ bát nhỏ này mà ra hết sức vẫn không lay động nổi." Văn Thù cầm bát lên đưa cho ma, khiến đi trước. Về đến rừng Kỳ Đà, phân cho vô lượng đại chúng, ai nấy đều no đủ, mà cơm trong bát vẫn không vơi...

d) Kiếp hỏa hóa hoa sen mà đi: Bảo Khiếp Kinh ghi: Xá Lợi Phất từng có lần cùng Văn Thù dạo thăm các quốc độ Phật. Đến một quốc độ Phật nọ, vào lúc kiếp hỏa cùng khắp. Do thần lực của Văn Thù, tự nhiên hoa sen hiện đầy trong ấy, rồi ngài bước trên hoa sen mà đi...

e) Hiện nhiều thân chống Ca Diếp: Ngày Thế Tôn tự tứ, Văn Thù nhập hạ tại ba chỗ, nên Ca Diếp bạch chùy định đuổi ra. Khi vừa đưa chùy lên, bỗng thấy trăm ngàn vạn ức Văn Thù xuất hiện. Ca Diếp ra hết sức lực, mà chùy không sao nhấc lên nổi. Thế Tôn hỏi: "Ông định tẩn xuất Văn Thù nào đây?" Ca Diếp không trả lời được.

f) Thu bát hiện bổn nguyên: Văn Thù Sư Lợi Phổ Siêu Tam Muội Kinh ghi: Phật tại Kỳ Hoàn tinh xá. Có hai trăm thiên tử học nghiệp Bồ Tát chưa mãn, không chịu nổi nhọc nhằn, tâm muốn thối thất, cầu đạo nhị thừa. Phật tức hóa ra một người cầm bát cơm dâng lên Phật. Văn Thù bạch Phật: "Hãy nhớ đến ân xưa mà chia cho tôi bát cơm ấy." Phật đặt bát xuống xuyên vào đất qua khỏi bảy mươi hai hằng hà sa cõi Phật, treo lơ lửng trong không. Phật hạ lệnh cho chư A La Hán và Bồ Tát, mỗi vị nhập tam muội để lấy bát về, song đều không được. Cuối cùng sai Văn Thù, Văn Thù không đứng dậy khỏi tòa, mà duỗi cánh tay trang nghiêm qua khỏi bảy mươi hai hằng hà sa cõi lấy bát đem lên. Các Bồ Tát ở cõi ấy không rõ chuyện gì, nên hỏi Phật cõi ấy. Phật đáp: "Đó là thần lực của Văn Thù, hiển lộng ra để lấy bát về." Các Bồ Tát ấy muốn đến gặp Văn Thù. Phật kia bèn phóng quang từ trên đỉnh chiếu thấu lên đến cõi Sa Bà. Chiếu qua cõi nào cũng có các Bồ Tát muốn đến gặp Văn Thù để nghe Pháp yếu. Nhờ đó mà biết được căn nguồn như sau: "Thuở quá khứ thời Vô Năng Thắng Tràng Phật xuất thế, có vị Tỳ khưu đi khất thực, thấy bà nhũ mẫu ẵm đứa bé con. Đứa bé thấy vị sa môn thì vui mừng, tụt xuống khỏi mẹ đi theo sa môn. Sa môn cho đứa bé mật, đứa bé lấy ăn, rồi lại theo sa môn đòi nữa, sa môn lại cho. Cứ thế vừa đi theo vừa đòi, cho đến tận Phật hội. Đứa bé thấy Phật rất thích thú, đòi sa môn cho mật để cúng lên Phật. Sa môn đưa cho cả bát mật, đứa bé dâng lên cho Phật liền, nhờ vậy mà tâm Bồ Đề khai phát. Vị Tỳ khưu thuở ấy nay chính là Văn Thù, đứa bé nhỏ kia nay chính là Như Lai. Ta do ăn mật của Tỳ khưu mà ngày nay đắc thành Phật."

g) Biến thân khác thành Phật nói Pháp: Bảo Thượng thiên tử nói với Văn Thù: "Hãy nuốt Ba Tuần vào trong bụng, để Ma khỏi làm chướng nạn cho người tu hành." Văn Thù không đồng ý như vậy, mà muốn cho Ba Tuần ngồi trên tòa sư tử mà biện luận vi diệu thuyết Pháp như Phật vậy. Ma nghe định trốn ngay, song do thần lực của Văn Thù giữ lại, nên rốt không sao trốn được, mà thân bị biến thành như Phật, ngồi nơi tòa mà thuyết Pháp. Xá Lợi Phất ca ngợi vô cùng. Văn Thù biết được, bảo rằng: "Tôi có thể làm cho tất cả cỏ cây rừng rậm, các vật vô tâm, đều biến thành hình tướng nói Pháp y như Phật vậy." Xá Lợi Phất sợ Văn Thù biến mình thành Phật, để mà đùa giỡn với mình, nên muốn ẩn trốn đi, song không trốn nổi, mà do thần lực của Văn Thù, liền biến Xá Lợi Phất thành Phật, cùng Ba Tuần đàm đạo, y như hai vị Phật luận thuyết về thâm Pháp vậy. Sau khi chứng kiến, trong chúng có ba vạn người phát tâm Bồ Đề, tám trăm Tỳ Khưu thành đạo.

h) Hóa lưới lửa để chặn đường mê: Bảo Khiếp Kinh ghi: Có lúc Văn Thù nói về Pháp thậm thâm như không cần phải gặp Phật, không cần phải cầu Pháp v.v... Có hai trăm vị Tỳ khưu không hiểu rõ đệ nhất nghĩa đế, cho là nói đảo điên, nên bỏ Phật mà đi. Văn Thù liền hóa thành cơn lửa lớn trên đường đi. Các Tỳ khưu định dùng thần túc bay trên không mà đi, thì thấy bên trên có lưới sắt phát sinh sợ hãi vô cùng, quay nhìn lại đường về Kỳ Viên, thấy hoa sen xanh giăng đầy. Các Tỳ Khưu liền trở lại Phật hội, lạy Phật thưa lại mọi việc. Phật bảo các Tỳ khưu: "Lửa bên trong chưa dứt mà đòi vượt qua lửa bên ngoài, làm gì có chuyện như thế được. Tỳ khưu các ông đọa trong lưới kiến, mà đòi vượt qua lưới sắt, cũng không sao có chuyện như thế được... Kiến và ái này không từ đâu đến, cũng không hề về đâu. Từ vọng tưởng mà sinh, vốn không có ngã, không có ngã sở v.v..." Hai trăm Tỳ Khưu nghe Pháp ấy rồi, các lậu còn sót lại đều tận diệt hết, thành A La Hán.

i) Oai thần vô lượng: Phật bảo Thiện Thắng thiên tử: "Oai thần của Văn Thù Đồng Tử như ta biết được, không có hạn lượng. Có thể hiển hiện hằng sa quốc độ trang nghiêm trong một quốc độ; có thể tụ hằng sa Phật độ vào một chỗ rồi đem ra khỏi hằng sa cõi ở phương trên, không có gì là khó; có thể lấy một sợi lông thu trọn biển cả khắp mười phương, mà chúng sinh không hề hay biết; có thể đem quốc độ ở mười phương thu vào trong một hạt cải, mà chúng sinh chẳng cảm giác gì. Này thiên tử, ta có nói hết một kiếp hay hơn một kiếp cũng không hết được các thần biến của Văn Thù." Văn Thù liền nhập tam muội Thần Biến Tự Tại Vương, hiện đủ các sự việc kể trên, đến Ma cũng phát Bồ Đề tâm.

j) Dùng kiếm ép Phật: Kinh Đại Bảo Tích 105 ghi: Có năm trăm Bồ Tát đắc túc mệnh trí, biết được các trọng tội mình đã làm trong nhiều kiếp. Do hối hận dày vò, nên không chứng được vô sinh pháp nhẫn. Lúc ấy Văn Thù Sư Lợi biết đuợc tâm niệm của họ, bèn ở giữa đại chúng trệch vai áo bên phải, tay cầm kiếm bén, bước thẳng đến Thế Tôn định ra tay làm hại. Phật bảo Văn Thù "Ông chớ hại Ta. Nếu thật muốn hại, thì phải hại một cách thiện. Tại sao vậy? Tất cả các pháp như huyễn hóa, không có ngã, không có người. Ai là người giết để rồi phải chịu tai ương." Lúc ấy các Bồ Tát mới biết rõ là tội đời trước đều như huyễn hóa, mà đắc vô sinh nhẫn, dị khẩu đồng âm nói kệ như sau: Văn Thù bậc đại trí, thấu đạt cùng đáy pháp, tự tay cầm kiếm bén, ép nghặt thân Như Lai, như kiếm Phật cũng vậy, một tướng không có hai, không tướng không gì sinh, nơi ấy làm sao giết?

6. Văn Thù lợi hành: Văn Thù Nê Hoàn Kinh ghi: Vị Bồ Tát này do lực trụ nơi tam muội Thủ Lăng Nghiêm, mà ở khắp mười phương cõi hoặc hiện sơ sinh, hoặc hiện diệt độ, để nhiêu ích chúng sinh. Nên có kệ rằng: Văn Thù đại Bồ Tát, không bỏ nguyện đại bi, biến thân thành dị đạo, hoặc đội nón, lộ thể, hoặc ở giữa bầy nhỏ, nô đùa nơi xóm làng, hoặc làm kẻ nghèo cùng, tiều tụy vì già bệnh, và hiện khổ đói lạnh, lang thang đi xin ăn, khiến ai một phen thí, được toại tất cả nguyện, khiến phát tín tâm rồi, sẽ nói Ba la mật, thống lĩnh vạn Bồ Tát, cư trụ Ngũ Đỉnh Sơn, phóng ức loại quang minh, thấy được tội tiêu diệt.

- Lại Xử Thai Kinh có nói kệ: Thân ta như vi trần, ở các quốc độ khác, ba mươi hai tướng sáng, không nơi nào không hiện...

- Phật Danh Kinh nói: Quá khứ vô lượng hằng hà sa Phật, lúc sơ phát tâm đều do ngài Văn Thù hướng dẫn.

- Kinh có ghi: Phật bảo Sư Tử Âm: "Quá khứ bảy mươi vạn a tăng kỳ hằng hà sa kiếp có vị Phật hiệu là Lôi Âm, thành Phật tại nước Vô Sinh ở phương đông. Lúc ấy Văn Thù làm vua tên Phổ Phú, đến Phật cúng dường, phát Bồ đề tâm. Tùy tùng của vua có đến hai mươi ức người, cũng phát tâm theo, tu hành lục độ, cho đến thành Bồ Đề, nhập vào Niết Bàn. Văn Thù Sư Lợi trọn đều cúng dường các Phật ấy. Trong số ấy có một vị Phật hiệu Trì Địa Sơn, tại thế giới Trì Địa ở phương dưới thành Đẳng Chính Giác. Phật này thọ vô lượng, đến nay vẫn còn trụ, hiện vẫn đang thuyết Pháp."

- Tại thành Vương Xá có cô con gái con trưởng giả, tên Diệu Huệ, chỉ mới tám tuổi, đến Phật hỏi pháp. Phật nói bốn mươi hành pháp cho cô bé. Diệu Huệ nói: "Nếu trong bốn mươi hành ấy mà ta không tu dù chỉ một hành thôi, tức là ta trái lời Phật dạy, là ta lừa dối Như Lai. Nếu lời nói ta không hề hư dối, thì cả đại thiên này sẽ chấn động." Vừa nói xong cả đại thiên thế giới chấn động sáu cách. Cô bé lại nói: "Ta chắc chắn sẽ thành Phật. Nếu lời nói này không vọng, thì toàn thể đại chúng này sẽ trở thành màu vàng kim hết." Vừa nói xong, toàn hội chúng đều biến thành màu vàng kim. Văn Thù hỏi: "Cô trụ pháp nào mà phát nguyện như thế?" Cô bé nói: "Văn Thù không được hỏi như thế, tại sao vậy? Bởi trong pháp giới không có đâu là chỗ trụ hết."... Phật bảo Văn Thù: "Cô bé gái này, ở trong quá khứ đã phát Bồ đề tâm được hơn ba mươi kiếp rồi, thì ta mới bắt đầu phát tâm hướng về Vô thượng bồ đề, và cô ta cũng chính là người làm cho ông trụ vào vô sinh pháp nhẫn." Tức thời Văn Thù liền đứng dậy khỏi tòa mà lễ lạy Diệu Huệ đồng nữ.

- Nhu Thủ Bồ Tát vào thành Xá Vệ khất thực, vô lượng đại chúng đi theo. Thời Long Thủ Bồ Tát cũng tùy theo. Hai vị đại sĩ đối đáp qua lại, bàn luận về thâm pháp đến mức độ rằng: "Khi đi khất thực không có tâm niệm là nhấc chân lên, không có tâm niệm đặt chân xuống, không có đi không có đứng, không có co lại không có duỗi ra, không có tâm niệm là khất thực, không có người khất thực, không có tâm, không có vật, thành quách xóm làng, già trẻ nam nữ, tất cả đều không có, tâm niệm ấy cũng không có, rỗng suốt thanh tịnh, như thế gọi là đạo khất thực của Bồ Tát vậy." Các bậc Thanh Văn trong hội chúng chẳng hiểu là các ngài nói gì.

- Niết Bàn Kinh có ghi: Phật nói sâu rộng về Niết Bàn, cho nghe những gì không được nghe. Cao Quý Đức Vương Bồ Tát hỏi Phật: "Đại Niết Bàn này, không phải thuộc về thời gian, Nếu không phải thuộc về ba thời, ắt không cách gì nói lên được. Thì sao Phật lại nói tu Đại Niết Bàn, được nghe những gì không được nghe?" Phật chứng nhận là đúng vậy. Lúc ấy trong đại hội bỗng có ánh sáng chan hòa, không phải xanh mà thấy xanh, không phải vàng mà thấy vàng, không phải sắc mà thấy sắc, không phải sáng mà thấy sáng, ai gặp phải ánh sáng ấy, thời thân tâm đều khoái lạc, như nhập vào tam muội. Văn Thù bạch Phật: "Ánh sáng này là do ai phóng ra vậy?" Như Lai im lặng không đáp. Ca Diếp Bồ Tát lại hỏi Văn Thù, Văn Thù cũng im lặng. Vô Biên Thân hỏi Ca Diếp, Ca Diếp cũng lặng im. Năm trăm Bồ Tát cũng y như vậy, tuy hỏi lẫn nhau mà không ai đáp. Phật mới hỏi Văn Thù rằng: "Do nhân duyên gì mà có ánh sáng này?" Văn Thù đáp rằng: "Ánh sáng này gọi là trí huệ. Trí huệ lại chính là thường trụ. Mà pháp thường trụ thì không có nhân duyên, vậy tại sao Phật lại hỏi do nhân duyện gì mà có ánh sáng này? Ánh sáng này gọi là đại Niết Bàn. Niết Bàn thường trụ không theo duyên mà sinh, cớ gì Như Lai lại hỏi nhân duyên?..." Phật bảo: "Ông đừng nhập đệ nhất nghĩa đế, mà hãy dùng thế đế để nói." Lúc ấy Văn Thù mới nói rõ là ánh sáng ấy là do Lưu Ly Quang Bồ Tát ở nước của Bất Động Phật thuộc phương đông hiện ra vậy.

- Văn Thù nói về Bồ Tát hành: "Bồ Tát hành ngay trong thế gian mà không bị thế pháp ô nhiễm; hiện ở trong ngoại đạo, mà các kiến chấp không sao chuyển động nổi; tuy đoạn phiền não mà không hề xả Bồ Tát hành; tuy không trụ hữu vi, mà cũng không trụ pháp vô vi..." Các điều ấy, nhị thừa không biết đâu mà lường.

- Bảo Tích Kinh ghi: Nếu có ai được nghe danh hiệu của Văn Thù, thì đều sẽ thành Phật, chỉ trừ những vị đã vào địa vị ly sinh (tức nhị thừa)... Nếu có ai được nghe danh Văn Thù, thì có nghĩa là được gặp gỡ chư Phật. Nếu có người thọ trì danh hiệu của trăm ngàn van ức chư Phật, không bằng thọ trì danh hiệu của chỉ một Văn Thù Bồ Tát, phúc nhiều hơn hết. Tại sao vậy? Do tất cả các việc ích lợi chúng sinh mà chư Phật kia làm, không bằng được Văn Thù chỉ làm trong một lúc.

- Bát Niết Bàn Kinh ghi: Nếu ai được nghe danh Văn Thù, hoặc thấy hình tượng ngài, thì trong trăm ngàn kiếp sẽ không đọa ác đạo. Nếu ai xưng niệm danh hiệu Văn Thù, thì dù có bị trọng chướng, cũng sẽ không đọa vào chỗ A Tỳ lửa thiêu dữ nhất, mà thường sinh vào các quốc độ thanh tịnh ở các phương khác, gặp Phật nghe Pháp, đắc vô sinh nhẫn.

Thế nên cho dù có ở bồng lai tiên cảnh, hay ở Tu Di thiên cung, kéo dài trăm ngàn vạn kiếp, cũng không bằng cất một bước hướng về núi Thanh Lương vậy.

7) Văn Thù sở nhân và pháp yếu: Quán Phật Tam Muội Hải Kinh ghi: Sau khi Thế Tôn thuyết Quán Phật tam muội cho chúng nghe rồi, Văn Thù Bồ Tát lại bảo với đại chúng rằng: "Vào thời Bảo Oai Đức Như Lai trong quá khứ, có người con trưởng giả tên là Giới Hộ. Khi còn trong bụng mẹ đã thọ tam quy y. Đến năm tám tuổi, cha mẹ thỉnh Phật về nhà cúng dường. Đứa bé thấy Phật bước đi thong dong an lạc, dưới chân sinh hoa, có ánh sáng tỏa chiếu. Thấy vậy rất hoan hỉ, bèn lễ lạy Phật. Lễ rồi chăm chú ngắm nhìn, không hề rời mắt. Một lần thấy Phật rồi, thời có thể diệt trừ được tội lỗi sinh tử suốt trăm vạn ức na do tha kiếp. Từ kiếp đó trở đi, thường được gặp gỡ trăm ức na do tha hằng hà sa Phật. Các Thế Tôn này đều nói về tam muội Quán Phật. Sau đó có trăm vạn vị Phật xuất hiện đều đồng một danh hiệu là Chiên Đàn Hải, thời cậu bé ấy được chính mình hầu hạ chư Phật, không có giây phút nào bỏ không, luôn lễ Phật cúng dường, chắp tay chiêm ngưỡng Phật. Do năng lực của nhân duyên công đức quán Phật này, mà lại gặp được trăm vạn a tăng kỳ Phật. Từ đó trở đi, liền được trăm vạn ức Niệm Phật Tam Muội, trăm vạn a tăng kỳ toàn Đà La Ni. Khi đắc được các pháp ấy rồi, thì chư Phật hiện ra trước mặt nói Pháp vô tướng cho nghe. Trong một khoảnh khắc liền đắc Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Cậu bé lúc ấy do thọ tam quy y, một phen lễ Phật và chiêm ngưỡng tướng Phật, tâm không biết chán, do nhân duyên ấy mà gặp vô số Phật, thì huống gì là chuyên niệm, suy xét trọn vẹn, chiêm ngưỡng sắc thân của Phật. Cậu bé ấy nào phải ai xa lạ, chính là ta đây vậy." Phật bảo A Nan: "Ông hãy đem các lời nói của Văn Thù Sư Lợi mà tuyên nói cho toàn thể đại chúng, cùng với chúng sinh trong vị lai. Nếu ai mà lễ bái, nếu ai mà niệm Phật, nếu ai mà ngắm nhìn Phật, phải biết những người ấy bằng ngang với Văn Thù không hề sai khác."

- Văn Thù Ma Ha Bát Nhã Kinh ghi: Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng: "Thế Tôn, phải thực hành như thế nào, thì mau đắc được A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề?" Phật nói: "Văn Thù Sư Lợi. cứ như Bát nhã Ba la mật đa nói mà thực hành, thì có thể mau đắc được A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề. Lại có tam muội Nhất Hành, nếu thiện nam tử thiện nữ nhân nào tu tam muội này, cũng sẽ mau đắc được A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề." Văn Thù hỏi: "Thế Tôn, thế nào là tam muội Nhất Hành?" Phật đáp: "Pháp giới vốn một tướng, duyên chặt vào pháp giới, thì gọi là Nhất Hành Tam Muội. Nếu thiện nam tử thiện nữ nhân muốn nhập vào Nhất Hành Tam Muội, thì trước hết phải nghe về Bát nhã Ba la mật, đúng theo lời giảng mà tu học, sau đó mới có thể nhập vào Nhất Hành Tam Muội, duyên đúng theo pháp giới, không thối không hoại, bất tư nghị, vô ngại vô tướng. Thiện nam tử thiện nữ nhân nào muốn nhập Nhất Hành Tam Muội phải ở nơi chỗ vắng vẻ, xả mọi loạn tưởng, đừng giữ lấy tướng nào, trói tâm vào một Phật, chuyên xưng danh hiệu, tùy theo Phật ấy ở phương nào, thì ngồi ngay ngắn hướng về phương ấy. Nếu nơi một Phật mà niệm niệm tương tục được, thì trong niệm ấy sẽ thấy được chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai. Tại sao vậy? Niệm công đức của một Phật là vô lượng vô biên, cũng không khác gì với công đức của vô lượng chư Phật. Phật pháp bất tư nghị bình đẳng với nhau không hề khác biệt, đều thừa theo nhất như, thành tối chính giác, trọn có đủ vô lượng công đức, vô lượng biện tài. Người nhập Nhất Hành Tam Muội như thế sẽ biết được tướng vô sai biệt của khắp hết hằng hà sa chư Phật và Pháp giới."

- Một hôm Thế Tôn thấy Văn Thù đứng bên ngoài cửa, mới gọi bảo: "Văn Thù vào đây." Văn Thù đáp: "Con không thấy có một pháp nào ở ngoài cửa hết, thì cớ sao Như Lai lại bảo con vào trong cửa?"

- Thế Tôn bảo Văn Thù hãy nhập vào tam muội Bất Tư Nghị Giải Thoát. Văn Thù nói: "Con tức chính là bất tư nghị rồi, thì còn làm sao nhập bất tư nghị gì nữa?"

- Thế Tôn hỏi Văn Thù: "Như Ông là Văn Thù, thì có một Văn Thù nào đó là Văn Thù hay không? Hay không có Văn Thù nào hết để là Văn Thù?" Văn Thù trả lời: "Thưa Thế Tôn, đúng vậy. Con thật sự là Văn Thù, không có gì là Văn Thù hết. Tại sao vậy? Nếu có ai đó là Văn Thù, thì hóa ra thành có hai Văn Thù. Song hiện nay đây, con không phải là không có Văn Thù, quả thật nơi chân lý này nói "là" hay nói "không phải là" đều không được."

- Thiện Tài hỏi về pháp xuất thế gian. Văn Thù đáp: "Ta tìm kiếm tướng thế gian, rốt cuộc không hề có được, vậy ông muốn xuất ly khỏi cái gì đây?" Ngài lại nói: "Tham sân si tức pháp giới bình đẳng, ta đối với các pháp này, không từng đã xuất ly, cũng không hề chưa xuất ly. Nếu có xuất hay không xuất, đều là đọa vào hai kiến."

8) Văn Thù trụ diệt: Văn Thù Bát Niết Bàn Kinh ghi: 450 năm sau khi Phật diệt độ, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát sẽ tới Tuyết Sơn tuyên thuyết giáo pháp cho năm trăm tiên nhân ở đó, khiến cho thành thục, rồi cùng chư thiên bay lên trong không mà về đến chốn sinh trưởng của mình (tức nước Xá Vệ), rồi ở dưới gốc cây ni câu ngồi kết già phu, nhập vào tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Do lực của tam muội này, mọi lỗ chân lông trên thân đều phát ra ánh sáng vàng kim, chiếu khắp mười phương, cho ai có duyên đều khiến được độ. Làm phật sự đó xong, có ánh sáng lửa chói lòa từ các lỗ chân lông phát ra, nung thân vàng kim của ngài, thành tượng lưu ly, dưới hai cánh tay có dấu ấn của chư Phật, đường nét rõ ràng. Trong tượng lưu ly có tượng chân kim, cao đúng 6 thước (tàu), ngồi trên đài hoa sen, rành mạch rõ ràng. Ánh sáng lửa tắt rồi, toàn tượng hiển hiện. Năm trăm vị tiên nhân kia mỗi vị hiện thần biến, đều cùng nhập niết bàn. Khi tất cả diệt độ xong rồi, tám Đại Quỷ Vương đem tượng lưu ly bay lên đặt trên đỉnh núi Kim Cương, dựng tháp cúng dường.

Hỏi: Đại thánh Văn Thù nhập diệt ở đây, trụ trì ở kia, vậy ngài là có diệt thật hay không? Hay không thật diệt? Nếu cho là thật diệt, thì người trụ ở đây là ai? Nếu bảo là không diệt, thì sao không còn thấy có thân tướng qua lại nơi đây nữa?

Đáp: Hoa Nghiêm Kinh có nói: Vì muốn cho chúng sinh phát vui mừng, nên ngài xuất hiện nơi thế gian này, vì nuốn cho chúng sinh sinh luyến mộ, nên ngài hiện bày ra niết bàn. Song thân của Bồ Tát không hề xuất hiện nơi thế gian, cũng không hề vào niết bàn. Tại sao vậy? Bồ Tát thường trụ thanh tịnh pháp giới, tùy theo tâm của chúng sinh mà hiện bày ra niết bàn vậy. Ví như mặt nhật, chiếu khắp thế gian, tất cả các bát nước nào trong là bóng mặt trời đều hiển hiện. Mặt trời có mặt khắp mọi nơi như thế mà không hề có đi lại. Lỡ như có bát nào vỡ đi, thì bóng mặt trời không thấy hiện nữa, đó không phải là lỗi của mặt trời vậy. Mới rõ đại thánh hoặc xuất hiện hoặc mất đi, đều do thích ứng theo chúng sinh. Nhưng pháp thân thì luôn trừng lắng, chưa từng có tướng sinh diệt lại qua. Thể đã chân thường, thì dụng cũng không gián cách, chỉ cần thanh tịnh tâm mình, thì thánh có bao giờ lại không hiện đâu. Đó mới là tướng niết bàn vậy.

Hỏi: Thánh có ba thân, vậy ngài dùng thân nào để trụ ở núi Thanh Lương đây?

Đáp: Ba thân đồng trụ. Trụ tướng ra sao? Trước hết là Pháp Thân trụ: Pháp Thân tức Tỳ Lô Già Na, tự thể có mặt khắp mọi nơi, thể tính của khí thế gian chính là Pháp Thân. Kinh nói "Thân tướng của Phổ Hiền như hư không, y theo chân thật mà trụ chứ không phải trụ theo quốc độ." Nay chiếu theo nghĩa tính và tướng trong Phật Pháp mà phân ra thân và độ, thời cho Pháp Thân trụ nơi Pháp Tính Độ. Do khế chứng mà thôi, rất khó mà suy biết, nên chỉ theo nghĩa mà nói "trụ" thôi, chứ thật ra không hề có hai thể năng và sở.

Kế đến là Báo Thân trụ: tức trí và lý thầm hợp, đức thể theo thể mà chu biến. Như mặt trời hợp với hư không thì gọi là "trụ". Nên Đông Pha nói: "Khê thanh tận thị quảng trường thiệt, sơn sắc vô phi tịnh diệu thân." tương tợ như nghĩa báo thân trụ ở đây vậy.

Sau cùng là Hóa Thân trụ: tức Văn Thù dùng thân ba mươi hai tướng cùng vạn Bồ Tát thường trụ nơi đây. Thường thì tùy loại mà hóa hiện như mục đồng, lão ông, bần nữ, con trẻ v.v.., là hoá thân trụ vậy. Nguyên vì Pháp Thân là thể, Ứng Hóa là dụng. Thể bao hàm các dụng, dụng gốc gác nơi các thể, thể bao trọn nên dụng có khắp, thế nên ba thân không lìa nhau.

Hỏi: Nếu thế, ắt thể đã vô biên, thì dụng cũng ứng hiện khắp, vậy tại sao lại chỉ riêng trụ ở Ngũ Đài mà thôi?

Đáp: Hiện ra nơi Ngũ Đài, là vì ứng theo căn cơ của Trung Hoa, muốn cho người ta có chỗ để quy tâm. Còn nếu nói theo lý lẽ cơ cảm theo sát trần, viên ứng khắp pháp giới, thì đâu có hạn cuộc nơi đâu!

II. Ngũ Đài Sơn

Chu vi hơn 250 cây số, gồm có năm ngọn núi cao vút, trên đỉnh không cây cối, như đắp đất lên thành Đài, nên gọi là Ngũ Đài. Năm Đài đều cao từ 2 đến 3 ngàn mét. cao nhất là Bắc Đài, 3058 m. Quanh năm đóng tuyết, mùa hè mưa nhiều, đôi khi vẫn có tuyết rơi, vào những ngày nóng nhất mà vẫn mát mẻ (thanh lương) như mùa thu, nên gọi là Thanh Lương Sơn.

Bồ Tát Hiển Ứng

1) Đỗ Thuận Hòa Thượng truyện: Tức Pháp Thuận hòa thượng, thuở nhỏ đã được Tùy Văn Đế coi trọng. Ngài có thần năng chữa bá bệnh, có thể đi ngang sông mà giòng nước tách đôi ra. Sau được vua Đường Thái Tông kính trọng, thường thỉnh vào trong cung thuyết pháp. Có lần vua bệnh cầu thần lực của ngài để chữa bệnh. Ngài nói: "Thánh đức ngự khắp cõi, chút bệnh thì có chi lo, chỉ cần đại xá, là thánh thể tự an." Vua nghe lời, bệnh liền khỏi, nhân đó mới ban hiệu cho ngài là Đế Tâm. Ngài có vị đệ tử tên Trí Xung, từ biệt đi Ngũ Đài lễ Văn Thù. Ngài đưa cho phong thư dặn: "Nếu gặp Văn Thù thì mở ra mà xem." Khi Trí Xung đến Ngũ Đài, rừng rậm thâm u, không nơi đâu không lần đến, bỗng gặp ông lão hỏi Xung rằng: "Ông lặn lội tiều tụy để tìm kiếm gì vậy?" Xung đáp: "Muốn tìm gặp Văn Thù, chưa rõ là ở đâu." Ông lão nói: "Văn Thù lâu nay đi hóa đạo tại Trường An, chưa trở về, ông đến đây mà gặp được gì !" Xung hỏi: "Là ai mới được?" Ông lão đáp: "Là Pháp Thuận hòa thượng chứ còn ai nữa !" Xung vừa quay gót lại, ông lão đã biến mất. Xung mở phong thư ra coi, có bài kệ rằng: Du tử xa thăm thẳm, Đài Sơn trải đồi non, Văn Thù chỉ là đó, cần chi hỏi Di Đà. Xung vội quay trở về Trường an, thì ngài đã thiên hóa mất rồi.

2) Phật Đà Ba Lợi vào hang Kim Cương: Phật Đà Ba Lợi (Giác Hộ) người nước Kế Tân thuộc bắc Ấn Độ, nghe nói bên Trung Quốc có nơi trụ xứ của Văn Thù, bèn lặn lội đường xa tìm đến lễ bái. Năm Phụng Nghi nguyên niên (676) đến phía nam Đài Sơn, leo lên đầu non, nhìn quanh nhìn quất, thấy cây cối đụng mây, hoa hương tràn đất, ngẩng đầu thấy năm ngọn núi, trong lòng vui mừng khôn xiết. Ngài mới năm vóc đảnh lễ, hướng lên không bạch rằng: "Như Lai diệt rồi, chúng Thánh ẩn mất, duy Đại Thánh Văn Thù Sư Lợi, đại bi vô tận, vẫn ở nơi núi này, để dẫn dắt quần sinh, giáo đạo chư Bồ Tát. Con thống hận mình sinh gặp thời nạn, không thấy được Thánh dung, nên lặn lội phương xa, cốt đến chiêm lễ, nguyện ngài đại từ, cho con tạm rõ chân dung, được nghe từ ngữ." Nói xong, sầu khóc, hướng về núi đảnh lễ. Bỗng thấy có ông lão từ trong hang bước ra, nói tiếng bà la môn, bảo ngài rằng: "Ông bảo tâm hoài chí đạo, xa tầm Thánh tung. Nay chúng sinh đất Hán, nhiều kẻ tạo tội nghiệp, các bậc xuất gia, nhiều kẻ phạm giới luật. Đất Tây có bộ Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà La Ni Kinh có thể diệt được nghiệp cấu trọng ác của chúng sinh, ông có mang theo không?" Ngài đáp: "Bần đạo đến đây chỉ cốt yết lễ, nên không mang Kinh theo !" Ông lão nói: "Không mang Kinh theo, thì đến có ích gì? Dù có gặp Văn Thù, cũng há có thể nhận ra chăng? Ông hãy trở về lập tức, mang Kinh lại đây, để lợi tế chúng sinh đau khổ ở đất nước này, tức là gặp mặt chư Phật, gần gũi cúng dường, thì một Văn Thù kia lẽ nào lại không gặp được sao?!" Ngài nghe xong, vui mừng không cùng, lạy dưới chân ông lão, chưa kịp ngước lên, ông lão đã biến mất. Ngài bi hỉ giao thoa, càng thiết chân thành, lập chí chết thôi, quay về đất Tây cầu Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà La Ni Kinh. Vào năm Hoằng Đạo nguyên niên trở lại Trường An, đem mọi việc tâu lên vua. Vua Cao Tông rất vui mừng sai Nhật Chiếu Tam Tạng hợp tác với ngài cùng dịch vào năm Vĩnh Thuần thứ hai (683). Dịch xong Vua ban cho ngài nhung lụa ba ngàn bức và cất giữ Kinh lại trong nội cung. Ngài khóc tâu: "Bần đạo được ủy mệnh đem Kinh về vì để tế độ quần sinh, chứ nào phải vì vinh hoa phú quý. Cầu mong Bệ Hạ mở cõi lòng nhân mà cho lưu bố Kinh điển!" Vua cảm động trước ý nguyện của ngài, nên giữ lại bản Hán và trao lại ngài bản Phạn. Sau đó ngài đến Tây Minh Tự cùng nhóm sa môn Chính Thuận v.v... dịch lại lần nữa. Dịch xong, ngài đem bản Phạn đến Ngũ Đài Sơn đi vào hang Kim Cương không trở ra lại nữa...

Hang Kim Cương, tức Kim Cương Quật, theo Kỳ Hoàn Đồ thì đó là nơi cất chứa đủ hết các đồ cúng dường của ba đời chư Phật. Vào thời Ca Diếp Phật, Lăng Già Quỷ Vương tạo ra nhạc thần và cả tạng Tỳ Nại Gia bằng giấy vàng chữ bạc, tạng Tu Đa La bằng giấy bạc chữ vàng. Sau khi Phật diệt độ đều thu nhập vào đó.

3) Vô Trước vào hang Kim Cương: Vô Trước thiền sư đến Thanh Lương Sơn, nghỉ đêm tại Hoa Nghiêm Tự, ngồi già phu trước lầu kinh, thiền luôn ba ngày. Đêm cuối thấy ánh sáng trắng từ phía đông bắc lại, chiếu ngay đỉnh đầu, hồi lâu mới tan mất. Trước cảm thấy thân tâm mát rượi, đắc đại pháp hỉ. Sáng sớm lần theo hướng đông bắc nơi ánh sáng chiếu đến mà đi. Đến cửa Lâu Quán Cốc (hơn 20 dặm phía đông nam của Đài), tâm tưởng đến thánh cảnh, mới lạy vài trăm lạy, rồi già phu thiếp nghỉ. Bỗng nghe tiếng giục bò, giật mình tỉnh dậy, thấy có ông lão quần áo xơ xác nghèo nàn, dẫn bò đi đến trước Vô Trước. Trước bái hỏi rằng: "Lão túc từ đâu tới?" Đáp: "Vào núi xin lương về." Trước hỏi: "Gia cư ở nơi nào?" Đáp: "Ở trong thung lũng này." Ông lão hỏi: "Còn thầy định đi đâu?" Trước đáp: "Định vào hang Kim Cương (ở vách núi phía trái của Lâu Quán Cốc) mà không biết đâu là cửa vào." Ông lão nói: "Tạm ghé nhà lão nghỉ ngơi uống chút trà." Vô Trước đi theo ông lão hơn năm chục bước về hướng bắc, thì đến cổng. Ông lão hô "Quân Đề !", có đồng tử ra mở cổng dẫn bò vào, ông lão mời Trước vào. Trong nhà mặt đất bằng phẳng toàn màu lưu ly, phòng ốc và đồ dùng, không hề có trong thế gian. Sau khi ngồi rồi, ông lão hỏi: "Thầy từ đâu đến?" Đáp: "Phương nam." Hỏi: "Có mang niệm châu tốt đến hay không?" Đáp: "Có thô châu thôi." Ông lão hỏi: "Xin đưa ra cho coi." Vô Trước đưa xâu chuỗi ra cho ông lão coi. Ông lão nói: "Đem cái của chính nhà ông ra coi." Trước nói: "Đây là cái của tôi." Ông lão nói: "Nếu là của ông thì sao lại từ phương nam đến được." Đồng tử dâng lên hai tách lưu ly rót đầy tô mật. Ông lão nâng tách lên hỏi: "Phương nam có cái này không?" Trước nói: "Không có." Ông lão hỏi: "Không có cái ấy lấy gì để uống trà?" Trước không trả lời được. Ông lão lại hỏi: "Phật pháp ở phương ấy trụ trì ra sao?" Trước đáp: "Mạt pháp Tỳ Khưu ít ai phụng trì giới luật." Lại hỏi: "Chúng nhiều ít?" Trước nói: "Khoảng năm ba trăm." Trước lại hỏi: "Phật pháp nơi đây trụ trì ra sao?" Lão đáp: "Rồng rắn lẫn lộn, phàm thánh xen tạp." Lại hỏi "Chúng nhiều ít?" Ông lão đáp: "Trước ba ba và sau ba ba." Vô Trước không biết nói gì nữa. Ông lão hỏi: "Thầy thường tu tập ra sao?" Trước đáp: "Bát Nhã huân tâm, không đắc yếu chỉ." Lão nói: "Không đắc là yếu chỉ." Lại hỏi "Ông lúc đầu xuất gia, chí cầu việc gì?" Trước đáp: "Muốn cầu Phật quả." Lão nói: "Sơ tâm là đắc.".... Vô Trước bái từ nói: "Nay có chỗ nghi, dám hỏi Đại Đức, chúng sinh trong đời trược, thiện căn ít ỏi, thì phải tu hành pháp gì mới được giải thoát?" Ông lão bèn nói kệ rằng: "Nếu ai tĩnh tọa trong chốc lát, hơn tạo hằng sa tháp bảy báu, tháp báu rồi ra thành vi trần, một niệm tĩnh tâm thành chính giác." Nói kệ xong, sai đồng tử tiễn Vô Trước ra về. Vô trước hỏi đồng tử: "Khi nãy chủ nhân nói trước ba ba và sau ba ba, là bao nhiêu cả thảy?" Đồng tử nói: "Phía đàng sau Kim Cương!" Vô Trước chưng hửng. Khi chào từ giã, Trước lại hỏi hang Kim Cương ở đâu? Đồng tử quay lại chỉ nói: "Cái này là chùa Bát Nhã!" Vô Trước quay lại nhìn, đồng tử và chùa đều biến mất... Bỗng mây lành nổi lên tứ phía, trên có ánh sáng tròn như chiếc gương treo, trong ấy thấp thoáng các hình bóng của chư Bồ Tát, cùng các bóng dáng của tịnh bình, tích trượng, hoa sen và sư tử... một lát sau mới tan biến. Vô Trước cảm khái làm thành bài kệ: "Khắp cùng sa giới thánh già lam, trước mắt Văn Thù tiếp đối đàm, lời lẽ ẩn gì không được rõ, ngoảnh lại chỉ thấy núi non xưa."

4) Pháp Chiếu vào Trúc Lâm Tự: Pháp Chiếu được coi là Tổ thứ tư của Tịnh Độ Tông. Ngài thuộc đời nhà Đường, không rõ năm tháng sinh và quê quán. Có lần trụ tại Vân Phong Tự ở Hành Châu, tu hành rất tinh cần, một hôm trong Tăng Đường, bỗng trong bát cháo nhìn thấy mây lành ngũ sắc, trong mây hiện hình chùa núi. Trong khoảng 50 dặm về phía đông bắc của chùa có ngọn núi, dưới núi có khe suối, phía bắc khe suối có cửa đá. Vào trong khoảng năm dặm có ngôi chùa, tên trên bảng vàng đề: "Đại Thánh Trúc Lâm Tự". Tuy mắt thấy rõ ràng, song tâm vẫn không dứt khoát được. Hôm khác vào lúc trai thời, lại thấy trong mây ngũ sắc ở trong bát hiện hình các chùa ở Ngũ Đài, mặt đất toàn là vàng ròng, không hề có núi rừng uế ác, mà đều là lầu gác ao đài bằng các báu trang nghiêm. Thấy ngài Văn Thù ở giữa cả vạn thánh chúng, lại thấy hiện ra tịnh độ của chư Phật. Ăn xong rồi mới biến mất. Pháp Chiếu tâm nghi chưa dứt khoát được, bèn hỏi thăm chư Tăng có ai từng đến Ngũ Đài Sơn chưa? Có hai thầy Gia Diên và Đàm Huy từng đến đó. Thuật lại thì đúng như những gì ngài thấy trong bát. Sau đó ngài ở Hành Châu Hồ Đông Tự, trong có một đài cao, lập đạo trường "Ngũ Hội Niệm Phật" trong vòng chín tuần lễ. Một hôm thấy mây lành che phủ đài tự, trong mây có các lầu gác, trong lầu có các phạn tăng, mỗi vị cao lớn đến cả trượng, cầm tích trượng hành đạo. Khắp vùng Hành Châu đều thấy Phật Di Đà, cùng Văn Thù Phổ Hiền, một vạn Bồ Tát, đều có mặt trong hội ấy, thân các ngài cao lớn. Ai nấy đều bi hỉ lễ lạy, cho đến khi cảnh tây phương diệt mất. Chiều hôm ấy, ngài gặp một ông lão ngoài đạo trường, bảo rằng: "Trước kia thầy phát nguyện đến thế giới Kim Sắc, để được gặp Đại Thánh, nay sao chưa đi đi?" Ngài ngạc nhiên hỏi: "Thời khó đường xa, làm sao để đi đây?" Lão nói: "Cứ việc đi, đường đi chắc chắn không có gì trở ngại." Nói xong biến mất. Ngài kinh ngạc, trở vào đạo trường chân thành phát nguyện lại mãn hạ sẽ lên đường, dù băng hà núi lửa, cũng không bao giờ thối lui. Ngày 13 tháng 8 năm đó lên đường cùng vài vị đồng chí hướng, quả nhiên không có gì trở ngại. Ngày 5 tháng 4 sang năm mới đến huyện Ngũ Đài, xa thấy phía nam Phật Quang Tự có vài đạo bạch quang. Hôm sau đến Phật Quang Tự, thì đúng y như đã thấy trong bát. Canh tư đêm ấy, thấy có đạo hào quang từ Bắc Sơn chiếu thẳng xuống... ngài bèn chỉnh đốn oai nghi, tìm theo hào quang đến phía đông bắc cách chùa khoảng 50 dặm, thì thấy có núi, dưới núi có khe suối, phía bắc khe suối có cửa đá, thấy có hai người hầu khoảng tám chín tuổi dung mạo đoan chính, đứng ngay nơi cửa, một gọi là Thiện Tài, hai kêu Nan Đà. Khi gặp ngài rất vui vẻ, chào hỏi đâu đó, rồi mời vào cửa. Vào rồi đi về phía bắc khoảng năm dặm, thấy một lầu cửa vàng. Đến gần cửa thì ra là một ngôi chùa, trước chùa có bảng hiệu lớn bằng vàng đề "Đại Thánh Trúc Lâm Tự", y như những gì đã thấy trong bát... Ngài vào trong chùa, đến Giảng Đường, thấy Văn Thù ở bên phía tây, Phổ Hiền ở bên phía đông, mỗi ngài đều ngồi trên sư tử tòa. Âm thanh nói pháp rành mạch rõ ràng. Hai bên Văn Thù cả vạn Bồ Tát, vây quanh Phổ Hiền cũng vô số Bồ Tát. Ngài bước đến trước hai bậc thánh, lễ lạy hỏi rằng: "Phàm phu thời mạt, cách xa thời Thánh, tri thức dần ít, cấu chướng thêm sâu, Phật tính không sao hiển hiện. Phật Pháp bao la, không rõ tu hành phải pháp môn nào mới là ách yếu nhất? Duy nguyện Đại Thánh đoạn nghi cho con." Văn Thù trả lời: "Ông nay niệm Phật, thì giờ đây chính đúng lúc ấy. Các môn tu hành không gì hơn niệm Phật, cúng dường Tam Bảo, phúc và huệ cùng tu. Hai môn ấy chính là thiết yếu bậc nhất. Tại sao vậy? Ta trong kiếp quá khứ do nhân nơi chiêm ngưỡng Phật, do nhân nơi niệm Phật, do nhân nơi cúng dường, mà nay đắc nhất thiết chủng trí. Thế nên tất cả các Pháp, Bát nhã Ba la mật, thậm thâm thiền định, cho đến chư Phật, đều từ niệm Phật mà sinh. Mới rõ niệm Phật là vua trong các Pháp. Ông phải thường niệm vô thượng Pháp Vương, khiến không ngừng nghỉ." Ngài lại hỏi: "Phải niệm như thế nào?" Văn Thù nói: "Ở phía tây thế giới này có Phật A Di Đà, nguyện lực của Phật ấy bất khả tư nghì, ông hãy niệm ngài đừng để gián đoạn. Sau khi mạng chung, chắc chắn sẽ vãng sinh, vĩnh viễn không thối chuyển nữa." Nói lời ấy xong, cả hai Đại Thánh đều duỗi tay vàng xoa đỉnh của ngài, để mà thọ ký: "Ông do niệm Phật mà không bao lâu sẽ chứng vô thượng Bồ Đề. Nếu thiện nam nữ nào nguyện mau thành Phật, thì không gì bằng niệm Phật, mới mau chứng được vô thượng Bồ Đề." Nói xong, hai vị đại thánh cùng nói lên kệ. Ngài được nghe rồi, hoan hỉ phấn chấn, lưới nghi trừ tuyệt, lễ lạy chắp tay. Văn Thù nói: "Ông có thể đi thăm Bồ Tát Viện để tuần tự lễ bái." Ngài y lời dạy thuần tự chiêm lễ đến vườn cây bảy báu... hái quả mà ăn. Ăn xong, thân tâm sảng khoái, đến trước hai Thánh lễ lạy thối từ... Hai trẻ hầu đưa ra đến ngoài cổng, lễ lạy xong, ngẩng đầu lên thời không còn thấy gì nữa... (mới lập thạch ký đến nay vẫn còn). Đến ngày 13 tháng 4, ngài cùng hơn năm mươi vị tăng đồng đến hang Kim Cương, chỗ Vô Trước gặp Đại Thánh, thành tâm lễ ba mươi lăm Phật danh. ngài vừa lễ được mười lần, bỗng thấy chỗ ấy khoảng khoát nghiêm tịnh, cung điện lưu ly hiện ra. Văn Thù, Phổ Hiền, một vạn Bồ Tát, cùng Phật Đà Ba Lợi, đồng ở tại một chỗ. Ngài chứng kiến xong, tự mình rất vui mừng, theo chúng quay về chùa. Canh ba đêm đó, ở lầu tây của Hoa Nghiêm Viện, bỗng thấy nơi lưng chừng núi phía đông chùa có năm ngọn đèn thánh to lớn, ngài nguyện thầm xin phân thành trăm ngọn, tức phân thành trăm ngọn, lại xin phân thành ngàn, tức phân thành ngàn, biến khắp mặt núi. Ngài lại một mình tìm đến hang Kim Cương nguyện gặp Đại Thánh. Đến nơi vừa hết canh ba, thấy vị phạn tăng, xưng là Phật Đà Ba Lợi, dẫn ngài vào Thánh Tự... Đến đầu tháng 12, ngài ở Hoa Nghiêm Viện thuộc Hoa Nghiêm Tự nhập niệm Phật đạo tràng, nguyện không ăn uống, thệ sinh tịnh độ. Đến ngày thứ bảy mới vào đêm, ngay lúc đang niệm Phật. lại thấy có vị phạn tăng bước vào đạo tràng nói rằng: "các cảnh giới của Đài Sơn mà ông đã thấy, tại sao không nói ra?" Nói xong biến mất. Ngài không rõ ông tăng ấy, và cũng không có ý muốn nói. Hôm sau, vào buổi xế chiều, ngay lúc đang niệm tụng, lại thấy có vị phạn tăng khoảng tám mươi tuổi, nói với ngài rằng: "Những điều linh dị mà thầy thấy ở Đài Sơn tại sao không lưu bố cho chúng sinh hay biết, cho họ được thấy nghe mà phát Bồ Đề tâm, đạt được đại lợi lạc?" Ngài nói: "Thật sự tôi không có tâm che đậy Thánh Đạo, mà do sợ họ nghe rồi sinh nghi ngờ hủy báng, thế nên mới không nói." Ông tăng nói: "Đại Thánh Văn Thù hiện đang ở núi này mà còn bị người ta nghi báng, huống gì là các cảnh giới mà ông thấy. Chỉ cần chúng sinh ai thấy nghe được mà phát tâm Bồ Đề, thì hãy vì họ mà làm duyên trống độc." Ngài nghe nói vậy rồi, nên tùy theo trí nhớ mà ghi chép ra... Sau Ngài cũng y theo chỗ mình thấy đề bảng hiệu Trúc Lâm Tự mà kiến lập nên một ngôi danh lam, cũng lấy tên là Trúc Lâm Tự. Mấy năm sau, ngài lại được thấy Đại Thánh hiển ứng lần nữa tại Đông Đài. Lần này ngài cùng với tám vị đệ tử đồng thấy ánh sáng trắng chiếu sáng ở Đông Đài, rồi có mây lạ nổi lên, mây tán ra thấy ánh sáng ngũ sắc chiếu sáng. Trong ánh sáng có hào quang tròn màu hồng, thấy ngài Văn Thù cưỡi thanh mao sư tử. Lúc ấy, tuyết lất phất bay, và hào quang tròn ngũ sắc tỏa rộng ra khắp sơn cốc...

http://www.viengiac.de/vi/index.php…