Thần chú là bản tâm của chư Phật, là mật ngữ của
chư Phật, chư đại Bồ Tát, lưu xuất từ trong đại định tam muội, đúc kết
tất cả tinh hoa vi diệu trong vũ trụ. Theo nguyên ngữ tiếng Phạn, thần
chú được gọi là “mantra”, có nghĩa là “bảo hộ tâm thức” thoát khỏi uế
trược, phiền não. Do đó, có thể hiểu nôm na thần chú là phương tiện ban
vui, cứu khổ.
ĐÔI DÒNG CẢM TƯỞNG
Tôi là người rất ngại “viết lách”.
Viết, đối với tôi là cả một cuộc “vật lộn” với chữ nghĩa. Vậy mà từ khi
được duyên may mắn, là người đầu tiên đọc tác phẩm Một đời người, một
câu thần chú của giáo thọ Nguyên Thành vừa viết xong, như có ai đó thúc
giục tôi một cách mãnh liệt, rằng phải viết lên những niềm hỷ lạc mà tôi
đã nhận được từ sự gia trì của Bổn Tôn qua tác phẩm này. Do vậy, tôi
“đành” phải “chấp bút”.
Tuy là người đã hành trì giáo pháp Mật
tông, và cũng đã đọc một số kinh điển giảng luận của các đạo sư và các
thánh tăng, viết về lợi ích của việc thực hành trì niệm thần chú nhưng
tôi vẫn không khỏi bàng hoàng và choáng ngợp bởi sự hoành tráng, đầy đủ
mọi khía cạnh nông sâu của thần chú Om mani padme hum. Tựa như những
viên pha lê đầy màu sắc trước kia để ẩn khuất từng nơi, nay được gom tụ
vào một chỗ thì ánh sáng lấp lánh của chúng tăng lên gấp ngàn lần vậy.
Tôi như một chú ếch đã tạm hiểu được sự rộng sâu của một dòng sông nhưng
vẫn phải nổ tung trước sự mênh mông bao la không bến bờ của đại dương.
Vậy đối với những ai có duyên lành với Phật pháp và mong muốn am tường
về thần chú Om mani padme hum của Bồ Tát Quán Âm, thì Một đời người, một
câu thần chú là một tác phẩm chứa đựng đầy đủ.
Như một nhà họa sĩ tài ba với cành cọ
khéo léo, một năng khiếu mỹ thuật, một tấm lòng bi mẫn chân thành, giáo
thọ Nguyên Thành đã vẽ lên một bức tranh toàn cảnh tráng lệ, làm cho
hàng căn cơ chậm lụt như tôi càng đọc tín tâm càng thâm sâu hơn vào sức
gia trì và lòng bi mẫn của Bồ Tát Quán Thế Âm. Chỉ một câu thần chú ngắn
ngủi sáu âm mà chứa đựng vạn pháp!
Từng chương trong tác phẩm mang những
hình ảnh, khía cạnh khác nhau của thần chú Lục tự đại minh, cũng giống
như mỗi màu sắc trong một bức tranh, càng tăng phần sinh động, mà vẫn
mang đầy đủ ý nghĩa về lòng bi mẫn siêu phàm của Bồ Tát Quán Thế Âm nhất
là những đại nguyện của Ngài dành cho tất cả chúng sanh với tâm không
phân biệt, dù cho căn cơ của mỗi chúng sanh khác biệt cũng đều được
hưởng lợi lạc như nhau.
Càng đi sâu, ta như lạc vào một hòn
đảo chứa đầy những viên ngọc quý giá và chính mình cũng được chiếu soi
từ ánh sáng ngọc quý, không những thế mà ta còn được tùy nghi sử dụng.
Niềm hỷ lạc dâng trào vì thấy mình quá may mắn gặp được Phật pháp trong
đời này và đang hành trì pháp môn trì tụng thần chú Lục tự đại minh.
Để đền đáp phần nào ơn tri ngộ với bậc
thiện tri thức qua tác phẩm quý báu này, tôi chỉ biết hết lòng cầu
nguyện cho bất cứ ai có duyên may đến được hòn đảo châu báu Om mani
padme hum đều sẽ khởi tâm tin nhận hành trì để được phần lợi lạc, không
phải trở về tay không!
Bà Rịa Vũng Tàu
Ngày 22 tháng 3 năm 2009
Mật Diệu Kính đề
LỜI NÓI ĐẦU
Thần chú là một đặc trưng của giáo pháp
Phật giáo Mật tông, bởi vậy nên gọi là Mật chú thừa hay là Kim cang
thừa. Trong Mật chú thừa, hình tượng vị Phật mà các hành giả tu tập
thiền quán Bổn tôn thường chọn nhất có lẽ là hình tượng đức Quán Âm Tứ
Thủ, và thần chú do Ngài tuyên thuyết là thần chú Mani cũng được nhiều
người thọ trì nhất, còn gọi là thần chú Lục tự đại minh hay thần chú Sáu
âm. Từ xưa đến nay đã có biết bao thế hệ hành giả Mật chú thừa sử dụng
thần chú Mani làm nền tảng tiến tu và nhận Bồ Tát Quán Âm là Bổn tôn
thiền quán.
Mật gia Song Nguyễn là nơi tịnh cư thực hành Mật giáo của người viết, cũng noi theo những tấm gương đó.
Trong những năm tháng thực hành pháp môn
trì chú song song với pháp quán tưởng Bổn tôn, người viết cũng như những
đồng môn khác như đạo hữu Mật Diệu, Mật Hải, Mật Tuệ, Mật Tấn, Mật
Hạnh... đều cảm nhận được không ít lợi lạc trong đời sống, cả về mặt tâm
linh cũng như thể chất. Thật sự không thể kể hết được ân phước gia hộ
từ Bổn tôn, Đạo sư, Dakini, là suối nguồn tâm linh đã mang đến cho chúng
tôi tất cả những gì có thể gọi là quý giá của kiếp người, bao gồm cả
niềm hạnh phúc trong đời sống hằng ngày cũng như những pháp vị được trải
nghiệm qua từng thời khóa hành trì!
Với tâm nguyện là niềm vui nên chia sẻ với
mọi người, tựa như ổ bánh ngọt thơm ngon muốn nhiều người cùng ăn chung
cho biết mùi vị, người viết không ngại tài sơ trí thiển, cố dồn tâm lực
vào tác phẩm này để chia sẻ những nhận thức của mình về thần chú Mani,
cũng như những trải nghiệm tâm linh trên đường tu Mật giáo mà bản thân
đã kinh qua, mong có thể giúp ích ít nhiều cho những ai chưa biết đến
Mật giáo, những ai có thiện cảm với Mật tông, cũng như những ai đang là
hành giả Mật giáo.
Trong tác phẩm “Một đời người, một câu
thần chú” này, người viết cố gắng thể hiện những quan kiến Mật giáo về
pháp môn trì niệm thần chú Mani từ nhiều khía cạnh khác nhau. Khi trình
bày, người viết cố gắng y cứ theo những luận chứng trong kinh điển để
tránh tình trạng “tri kiến lập tri”, tức là luận giải chủ quan của cá
nhân mình. Tuy vậy, về sự vi diệu của thần chú Mani thì có lẽ chỉ chư
Phật mới có thể luận bàn rốt ráo. Vì vậy, người viết khó có thể tránh
được nhiều sai sót, khuyết điểm. Rất mong quý bạn đọc gần xa niệm tình
tha thứ, người viết chân thành cảm kích. Được chút thiện hạnh nào, người
viết xin nguyện hồi hướng về cho mọi chúng sanh hữu tình, vô tình trong
pháp giới.
Mật gia Song Nguyễn
Phật lịch 2552
Thinley Nguyên Thành
Cẩn chí
ĐẠI SĨ LIÊN HOA SANH (tức GURU RINPOCHE) Đạo sư của nhiều thế hệ hành giả Mật giáo
ĐẠI THÀNH TỰU GIẢ LONGCHENPA và các vị đệ tử dòng truyền thừa Nyingma
ĐỨC ĐẠT-LAI LẠT-MA XIV Lãnh tụ tinh thần của Phật giáo Tây Tạng
DẪN NHẬP
Vùng cao nguyên Ladakh thuộc đất nước
Nepal, vào ngày 4 tháng 3 năm 2009. Thời tiết âm 180C! Không cần nói, ai
cũng nhận thấy cái rét buốt da ở đây. Nhưng người dân địa phương lại
cho biết, so với năm ngoái vào thời điểm này thời tiết còn xuống đến âm
280C. Được như hôm nay là đã ấm hơn nhiều!
Song, vấn đề không phải chuyện ấm lạnh, mà
là đang có đến hàng vạn người quy tụ về địa điểm Shey, thuộc cao nguyên
Ladakh, không quản mưa lạnh giá rét! Họ tham gia lễ cầu nguyện và trì
tụng thần chú Mani cùng thần chú Kim cương Thượng sư một trăm triệu biến
mỗi loại. Nghi lễ tâm linh này được diễn ra dưới sự hướng dẫn của đức
Pháp vương Gyalwang Drukpa XII. Thành phần tham gia có đủ tứ chúng trong
Phật giáo: tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, cư sĩ nam và cư sĩ nữ. Tất cả đều cầu
nguyện cho quốc thái dân an, thế giới hòa bình, bản thân tinh tấn tu
hành để làm lợi lạc cho chúng sanh và chính mình.
Trên thực tế, sự kiện trọng đại này đã có
khoảng 45.000 người tham gia. Điều này cho thấy niềm tin mãnh liệt của
họ về công năng bất khả tư nghị của thần chú.
Vậy thần chú là gì mà có thể trở thành một phương tiện thiện xảo như thế?
THẦN CHÚ LÀ GÌ?
Thần chú là bản tâm của chư Phật, là mật
ngữ của chư Phật, chư đại Bồ Tát, lưu xuất từ trong đại định tam muội,
đúc kết tất cả tinh hoa vi diệu trong vũ trụ. Theo nguyên ngữ tiếng
Phạn, thần chú được gọi là “mantra”, có nghĩa là “bảo hộ tâm thức” thoát
khỏi uế trược, phiền não. Do đó, có thể hiểu nôm na thần chú là phương
tiện ban vui, cứu khổ.
Trong Phật giáo Mật tông, thần chú là một
phương tiện được sử dụng song hành với phương pháp thiền quán Hộ Phật Du
Già (Yidam Yoga), hay còn gọi là thiền quán Bổn tôn.
Công năng của thần chú được mô tả trong nhiều kinh sách Mật giáo. Tuy nhiên, tựu trung thần chú có 5 công năng vi diệu sau đây:
1. Kính ái: ai đọc thần chú sẽ được người, trời, quỷ thần kính trọng và quý mến;
2. Tăng ích: được gia tăng những lợi ích trong đời sống như tuổi thọ, sức khỏe, sự thành đạt;
3. Tiêu tai: tai ách sẽ dần tiêu trừ theo diễn trình từ nặng hóa nhẹ, từ nhẹ trở thành không còn nữa;
4. Hàng phục: trừ tà, diệt ma, tức là những thế lực xấu ác vô hình gây tổn hại cho con người;
5. Câu triệu: tập trung được những năng lực tinh tế của vũ trụ, từ các cảnh giới cao diệu...
Nhưng đó chỉ là những lợi ích thuộc về pháp hữu vi, chưa nói đến các lợi ích cao siêu hơn thuộc về pháp vô vi.
Trong pháp hội Lăng Nghiêm, đức Phật dạy
rằng ngay cả các bậc đại Bồ Tát cũng cần trì chú. Từ đó có thể thấy rằng
thần chú thực sự hữu ích cho chúng sanh hữu tình, trong đó có loài
người chúng ta. Sau đây là một trích dẫn từ kinh Thủ Lăng Nghiêm để thấy
rõ oai lực của thần chú:
“Giả sử có chúng sanh trong tâm còn tán
loạn, nhưng nếu trì niệm thần chú này cũng vẫn thường được 84.000 hằng
hà sa Kim cang thần ngày đêm đi theo giữ gìn hộ vệ... Các quỷ thần ác
phải xa lánh vị thiện nhân này ngoài 10 do-tuần, và chúng ma muốn rình
rập quấy nhiễu cũng không thể được...”
Ngoại đạo có thần chú hay không? Hành giả
ngoại đạo cũng có những mật chú riêng, có công năng khác nhau, nhưng
không thể gọi là thần chú. Ở họ có thể gọi là thiên chú, tiên chú, quỷ
chú, yêu chú... tùy theo đạo giáo của họ. Chẳng hạn, trong Bà la môn
giáo có Phạm thiên chú, trong Lão giáo có tiên chú, trong giáo phái thờ
quỷ thần, yêu ma thì có loại quỷ chú, yêu chú... Nhưng chỉ riêng trong
Phật giáo mới có mật chú được gọi là thần chú.
Vì sao vậy? Chữ “thần” ở đây không có
nghĩa là cõi thần, mà là “thần diệu khôn lường”, diệu dụng vô công, là
thần lực của chư Phật. Ngoại đạo không đạt đến cảnh giới siêu phàm đó,
nên không thể gọi là thần chú. Lược nói đơn giản là như thế, nhưng để
thấu triệt cần phải phân tích thêm...
Nguyên nhân ở chỗ là do định lực của mỗi
đạo nông sâu khác nhau. Những tu sĩ ngoại đạo dù chuyên cần tu luyện đến
đâu cũng chỉ có thể đạt được những thành tựu trong phạm vi tứ thiền,
bát định; có nghĩa là từ sơ thiền lên đến tứ thiền, rồi dần lên đến cảnh
giới Phi tưởng phi phi tưởng là hết mức. Theo lời Phật dạy, nếu họ gột
sạch được tập khí chấp ngã, họ cũng có thể đạt tới Diệt tận định, thoát
khỏi luân hồi. Nhưng vì họ tu tập trên căn bản vẫn còn chấp ngã nên điều
này là không thể xảy ra. Và vì thế mà thành tựu cao nhất này chỉ có ở
hành giả Phật giáo, những người tu tập giáo pháp vô ngã. Chính vì vậy mà
hành giả ngoại đạo chỉ có thể đạt tới những mức định thuộc Sắc giới và
Vô sắc giới, nghĩa là không ra khỏi Tam giới. Do đó, họ vẫn còn trôi lăn
trong cõi luân hồi chịu khổ não, cho dù các vị trời Vô sắc giới sống
lâu đến nhiều đại kiếp.
Các hành giả Tiểu thừa có thể đạt đến Diệt
tận định, làm vắng bặt được thọ ấm, tưởng ấm cùng những tập khí ô nhiễm
chấp ngã của hành ấm, chạm vào mép cửa của tàng thức sơ năng biến, đã
thoát khỏi vòng cương tỏa luân hồi. Nhưng đến đây vẫn còn sự biến dịch
vi tế và mãnh liệt của những vọng tưởng hư vô vi tế của tàng thức. Bởi
vậy, họ chưa đạt được Đại định Tam-muội.
Riêng trong Phật giáo Đại thừa, Mật thừa,
các hành giả tu theo con đường Bồ Tát đạo, Phật đạo, thường quán chiếu
các pháp như huyễn, thực hành phương tiện và trí huệ Bát-nhã
ba-la-mật-đa, thẩm thấu đại bi đồng thể và tự tâm huyễn hiện... nên đạt
được thần lực của Đại định tam-muội, như Thủ lăng nghiêm tam-muội, Như
huyễn tam-muội, Chân như tam-muội, Kim cang tam-muội... Khi có được đại
định ấy gọi là Diệu định quả sắc, trở thành bậc Đại thánh trong Phật
giáo, vô ngại tự tại ra vào sanh tử mà chẳng chút nhiễm ô, hóa độ vô
lượng chúng sanh hàng vô số kiếp mà không chút dụng công. Đó là đặc điểm
của diệu tâm, và từ diệu tâm nên các ngài mới có thể tuyên thuyết thần
chú. Do đó có thể hiểu rằng thần chú là phương tiện thần diệu.
Cũng với ý nghĩa này, hòa thượng Tuyên Hóa
từng giải thích về thần thông pháp lực. Ngài cho rằng có quỷ thông
(phép tắc biến hiện của quỷ), tiên thông (phép tắc biến hiện của tiên,
chư thiên cõi trời), ma thông (phép tắc biến hiện của ma), yêu thông
(phép tắc biến hiện của yêu quái). Tất cả các loại phép tắc biến hiện đó
đều gọi là “nghiệp thông”, Chỉ riêng ở hành giả đạo Phật mới được gọi
là “thần thông”, tức là biến hóa tự tại, phân thân vô số ức...
Trong kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn nguyện, Phẩm thứ hai ghi lại một đoạn như sau:
“Các phân thân của con thị hiện ở khắp
trăm ngàn muôn ức Hằng hà sa thế giới; trong mỗi thế giới hóa hiện trăm
ngàn muôn ức thân, mỗi một thân đó hóa độ trăm ngàn muôn ức người, khiến
cho họ quy kính Tam bảo, vĩnh viễn xa lìa sanh tử, đến được Niết-bàn an
lạc...”
Sở dĩ được như vậy là vì bậc thánh trong
đạo Phật có đạt được “Lậu tận thông” làm nền tảng mà các hành giả ngoại
đạo không thể. Từ điểm tham chiếu này có thể hiểu rằng thần chú là danh
từ chỉ có ý nghĩa chuẩn xác nhất khi được dùng trong Phật giáo, nhất là
Mật tông. Cũng từ đó ta có thể suy ra, chỉ có thần chú trong đạo Phật
mới có được đầy đủ 5 công năng lợi ích vi diệu như đã nêu trên ở bình
diện thế gian, còn những thành tựu xuất thế gian sẽ tiếp tục được luận
giải ở chương sau.
Thần chú trong đạo Phật được chia làm 4 loại với những cấp độ khác nhau. Trong Tâm kinh Bát-nhã có đề cập đến:
“Đây là đại thần chú, đại minh chú, vô
thượng chú, vô đẳng đẳng chú, có khả năng trừ được hết thảy khổ não,
chân thật không hư dối.”
Cũng có một cách phân loại thần chú gồm:
đảnh chú, tâm chú và tùy tâm chú. Thông thường, chỉ có chư Phật mới lưu
xuất đảnh chú, thí dụ như “Đại Phật đảnh chú Thủ Lăng Nghiêm” hoặc “Phật
đảnh Tôn thắng thần chú”... Về mặt lý thì thần chú của chư Phật cao hơn
chư Bồ Tát đẳng giác, tức là các đại Bồ Tát. Tuy nhiên, về mặt sự thì
tất cả thần chú trên đều lưu xuất từ Đại định Tam-muội nên công năng vi
diệu đều là bất khả tư nghị.
Trong các nghi quỹ thực hành thần chú có
chỉ dạy cách đọc tụng, trì niệm. Nói chung, đọc thần chú là phát ra
thành tiếng hoặc lớn hoặc nhỏ, còn tụng thần chú là ngâm nga trầm bổng
theo tiếng chuông mõ như hiện đang thực hiện ở các chùa, tu viện Đại
thừa.
Nếu đọc thần chú thành tiếng thì nên tránh tám lỗi sau đây mà “Nghi quỹ Do Subahu thỉnh cầu” đã đề ra:
1. Quá nhanh,
2. Quá chậm,
3. Quá lớn,
4. Quá nhỏ,
5. Gián đoạn vì nói chuyện với người khác,
6. Xao lãng
7. Âm dài, đọc ngắn,
8. Âm ngắn, đọc dài.
Sau đây là giải thích cặn kẽ:
Quá nhanh là khi các âm của thần chú lẫn vào nhau, không rõ ràng.
Quá chậm là khi hành giả không đọc hết số câu thần chú trong khoảng thời gian vừa phải
Quá lớn là đọc như sấm, hoặc đọc làm cho người khác nghe thấy lớn tiếng.
Quá nhỏ là đọc mà chính mình cũng không nghe.
Nói chuyện với người khác là làm gián đoạn việc đọc thần chú.
Xao lãng là không tập trung vào câu thần chú mà mình đang đọc.
Âm dài đọc ngắn là phát âm sai những chữ của thần chú.
Âm ngắn đọc dài cũng là phát âm sai.
Riêng niệm thần chú tức là đọc thầm trong trí, hoặc đọc rì rầm mà người ta thường ví là chỉ đọc cho cổ áo nghe.
Niệm chú gồm có 6 cách sau đây, được ghi
lại trong “Thánh nữ kinh” (hay còn gọi là “Giáo huấn Dakini”) do Đại sĩ
Liên Hoa Sanh chỉ dạy:
– Một là niệm kim cương, có nghĩa là niệm mà chỉ có chuỗi đeo cổ của mình có thể nghe thấy.
– Niệm có âm điệu kim cương, được dùng trong những dịp thực hành thành tựu lớn.
– Niệm bí mật kim cương là niệm thầm trong trí.
– Niệm như luân xa, là tưởng tượng âm thanh khi niệm ra khỏi miệng, đi vào vùng rốn, rồi tan hòa ngược lên vùng trung tâm tim.
– Niệm như tràng hoa, là xoay tràng hoa
thần chú xung quanh mỗi chủng tự thần chú trong trung tâm tim và chú tâm
hoàn toàn vào các chủng tự.
– Niệm chú tập trung vào âm thanh là khi niệm chú luôn tập trung chú tâm hoàn toàn vào âm thanh phát ra của câu thần chú.
Mặc dù niệm thần chú có thể áp dụng trong
mọi oai nghi như đi, đứng, nằm, ngồi..., nhưng khi ngồi theo tư thế kiết
già để niệm thần chú là tốt nhất. Đặc biệt, trong “Thánh nữ kinh” cũng
khuyến cáo, nếu hành giả đọc các thần chú Mật thừa hoặc thần chú của các
vị bổn tôn hung nộ quá lớn thì oai lực của thần chú sẽ giảm đi đồng
thời còn khiến cho các loài phi nhân và ma quỷ sẽ hoảng hốt mà bất tỉnh.
Cũng đừng khạc nhổ những nơi có người qua lại, vì như vậy gây trở ngại
cho năng lực thần chú. Riêng sự phát âm chưa đúng không phải là vấn đề
quan trọng nhất trong việc trì tụng thần chú, mà chủ yếu là sự chí
thành, miên mật.
CHUYỆN KỂ VỀ THẦN CHÚ
Chuyện kể răng thuở xưa có một bà lão nghèo sống đơn độc trên một đỉnh
núi ở Tây Tạng suốt ngày, ngồi dùng cơm ra, bà lão luôn lẩm nhẩm câu
thần chú Lục tự đại minh của Bồ Tát Quán Thế Âm.
Qua nhiều năm như vậy, một hôm bà lão đọc
thần chú khiến hạt đậu nhảy qua, nhảy lại hai cái rổ tre của mình. Từ
đó, bà có một trò chơi như vậy. Bà sống với niềm vui đó suốt cuộc đời
còn lại và không một chút vướng bận thế tục.
Ngày nọ, một hành giả Mật thừa tình cờ leo
lên đỉnh núi, thấy hào quang phát sáng ở trong hang động nhỏ. Ông lần
mò vào xem và thấy một cụ già đang lẩm nhẩm gì đó. Và mỗi lần như vậy
hào quang lại phát ra từ trong động lờ mờ kia, nơi cụ già đang cư ngụ.
Vị hành giả thầm hiểu cụ già đó đã đạt Nhất tâm tam-muội do pháp môn trì
niệm thần chú.
Chuyện kể rằng, thuở xưa có một người được
gọi là “mũi trái rạ”, vì hồi nhỏ anh ta bị bệnh trái rạ để lại những
vết sẹo đỏ hồng trên mũi. Suốt ngày anh ta chỉ lo việc chăn bò ngoài
đồng cỏ, còn những người trong gia đình thì chăm chỉ học tập kinh điển
với một vị Lạt-ma. Họ cho rằng anh dốt nát nên mỗi lần anh muốn dò hỏi
họ học những gì ở vị Lạt-ma, hay vị Lạt-ma làm gì, nói gì..., liền bị
gạt qua một bên. Họ cho rằng đó là “Mật giáo”, không phải ai cũng có thể
biết được!
Có lần anh ta gạn hỏi: “Các người học được
mấy điều?” Họ trả lời: “Chỉ có 3 điều thôi! Thậm chí chỉ có 3 chữ mà
bao quát toàn bộ tri kiến Phật.”
Gia đình không ai để ý đến anh ta, ngoài
việc bảo anh ta dẫn bò xuống làng bán hoặc mua thực phẩm. Anh tha thiết
được học như họ, nhưng hầu như không ai cho anh được toại ý.
Vài năm sau đó, anh âm thầm trốn khỏi nhà,
tìm cầu học đạo để mong được như những người khác. Vượt qua nhiều gian
nan, anh cũng gặp được giáo pháp. Đó là nơi một vị Lạt-ma đang thuyết
giảng cho những tu sĩ khác ở một trại lều cạnh chân núi. Anh mon men vào
nghe. Quả thật là Phật pháp cao sâu, anh chẳng hiểu một tí gì sau hai
giờ liền chăm chú lắng nghe. Vị Lạt-ma giảng những gì mà phức tạp, khó
hiểu, càng nghe càng rối bời. Còn 3 chữ chứa đựng toàn bộ tri kiến Phật
mà gia đình anh nói, chẳng nghe gì cả!
Anh buồn rầu tâm sự với vị Lạt-ma nọ.
Thông cảm với anh, vị Lạt-ma liền hứa sẽ mời vị thầy chứng đắc của mình
dạy bảo tinh túy giáo pháp cho anh.
Sáng hôm sau, khi mặt trời ửng hồng ở chân
trời phía đông, anh chăn bò ham học giáo pháp đã đứng trước vị sư Mật
giáo được tôn vinh là thành tựu giả. Ngài yên lặng lắng nghe anh yêu cầu
trao truyền 3 chữ tinh yếu ấy. Ngài biết rõ, nếu tâm thức chín mùi, căn
cơ lanh lợi thì dù chỉ một từ, một tiếng cũng có thể giúp người đệ tử
đắc pháp và nhập tri kiến giải thoát. Nhưng nhìn anh chăn bò có “mũi
trái rạ” này, Ngài không thể nói gì hơn bởi sự đần độn lộ ra vẻ ngoài
của anh ta. Ngài mỉm cười nói lãng sang chuyện khác. Anh chăn bò tưởng
vị sư ích kỷ, giấu giếm tuyệt học, liền lên giọng thô lỗ, văng tục không
ngớt. Thị giả của sư trưởng không chịu nỗi, lấy chuỗi hạt đeo trên cổ
đập vào đầu anh ta và gằn giọng: “Này mũi trái rạ, đâu có gì! Benza Hung
Phat!”
Nghe thế, tự dưng anh chăn bò vỗ tay cái
đét vào đùi mình rồi hét lên: “Dạ, cảm ơn Lạt-ma, con xin ghi nhớ mật
chú của Ngài dạy, đó là tinh túy giáo pháp. Benza Hung Phat! Đúng rồi!
Benza Hung Phat! Con nhớ rồi! Benza Hung Phat!” Con cảm ơn nhiều!”
Thế là anh chăn bò khấp khởi trong lòng
lên đường về nhà, anh đã tìm được cái mà người khác không thể ngờ. Người
nhà thấy anh hoan hỷ lộ ra mặt khác với sự đăm chiêu, khắc khổ ngày
thường. Họ hỏi anh tại sao, anh ưỡn ngực trả lời: “Mọi người chắc không
tin ta đâu! Ta đã học được tinh túy của giáo pháp chỉ thu gọn trong 3
chữ.”
Trầm ngâm một lát, anh nói tiếp: “Ba chữ
này bí mật ta phải giữ kín, mỗi ngày đều phải trì niệm.” Những ngày sau,
anh trở lại với công việc chăn bò như cũ, chỉ khác trước kia là anh có
một chỗ ngồi thiền định trên tấm rạ sau khi xong việc. Anh ngồi kiết
già, tập trung cao độ trì niệm câu thần chú. Trong lúc chăn bò, mỗi lần
cảm thấy tâm mình buông lung, anh lại nhẩm đọc “Benza Hung Phat”. Không
bao giờ anh tìm hiểu 3 chữ ấy mang ý nghĩa gì. Đối với anh “mũi trái rạ”
này, chỉ đơn giản là 3 chữ đó bao trùm toàn thể vạn vật.
Với tâm chí thành tu tập, dần dần chàng
“mũi trái rạ” của chúng ta trở thành một hành giả Mật tông có trình độ
thâm sâu, mặc dù anh không tự biết chứng nghiệm của mình đến đâu.
Nhiều năm trôi qua, có một hôm có người
tìm đến “Mũi trái rạ” để nhờ anh chữa trị bệnh tà mà bà vợ của một phú
hộ bị mắc phải. Anh ta từ chối, nhưng họ nằng nặc cố mời “mũi trái rạ”
đi xuống làng, vì mọi người tin rằng anh có câu mật chú thiêng liêng.
Vạn bất đắc dĩ, anh đành theo họ vì lòng
bi mẫn thôi thúc, mặc dù anh không dám tin vào khả năng của mình. Đến
nơi, anh vào thăm người bệnh đang vật vã. Anh bắt chước thầy mình, lấy
chuỗi hạt trên cổ ra, đập vào đầu người bệnh và gọi lớn: “Mũi trái rạ,
đâu có gì. Benza Hung Phat!” Lạ thay, người bệnh bỗng nhiên hết bị tà
ám, trở lại bình thường, ngơ ngác nhìn mọi người như vừa mới tỉnh cơn
mê. Gia chủ cảm ơn rối rít và cúng dường anh ta nhiều phẩm vật.
Từ đó, “Mũi trái rạ” không còn là người
chăn bò tầm thường nữa, ông ta được nhiều người trọng nể. Giờ đây, ông
chỉ ngồi thiền với câu mật chú của mình, gác hết mọi việc đời qua một
bên. Người nhà không dám để ông chăn bò nữa mà dọn cho ông một túp lều
có tiện nghi đầy đủ, dâng cơm đến hằng ngày. “Mũi trái rạ” chỉ còn duy
nhất một việc làm: chữa trị bệnh tà và một số bệnh khác cho dân làng.
Rồi một ngày kia, vị Lạt-ma trước đây đã
từng truyền thần chú cho “Mũi trái rạ” cũng bị bệnh. Nghe danh một hành
giả có cái mũi trái rạ nào đó, có câu mật chú kỳ diệu trị được nhiều
bệnh khác nhau, đồ chúng liền đón rước anh chăn bò năm xưa về chữa trị
bệnh sưng cổ họng cho vị Lạt-ma của mình.
“Mũi trái rạ” nghe tin thầy cũ bị bệnh
liền tức tốc tìm đến, vén lều bước vào. Đến bên giường, ông chuẩn bị rút
chuỗi hạt thì vị Lạt-ma hỏi thị giả, tên khùng này là ai mà sắp đập
chuỗi hạt vào đầu mình. Lúc đó, người chăn bò năm xưa quỳ xuống nói:
“Thầy không nhận ra con sao? Con đến đây để thực hành phép chữa bệnh mà
Thầy đã dạy cho con với lòng bi mẫn vô hạn. Nhờ đó mà con đã giúp được
nhiều người”.
Tìm lại trong ký ức, vị Lạt-ma dần dần nhớ
ra là ông từng thốt lời giận dữ, đập chuỗi hạt trúng đầu tên khùng này
và đọc một câu thần chú đuổi quỷ: Benza Hung Phat.” Vị đạo sư cười lớn
vì không ngờ hành vi năm xưa đó có hiệu quả vô biên. Thị giả Ngài cũng
cười theo và cả người chăn bò cũng cười. Họ cùng nhau cười vang và nhờ
vậy đờm độc trong cổ vị Lạt-ma bị tống ra ngoài. Ngài tự nhiên lành
bệnh.
Một câu chuyện có thật khác đã xảy ra vào thời Đức Phật còn tại thế, được ghi chép trong kinh Thủ Lăng Nghiêm.
Một ngày nọ, vị đệ tử thị giả của Phật là
A-nan đi khất thực trên một con đường làng quê nọ. Lúc ấy, có một thôn
nữ tên là Madanga (Ma-đăng-già) thuộc hàng tiện dân, thoạt nhìn thấy
phong mạo của thầy Anan liền mê mẫn tâm thần. Từ đó, nàng bỏ ăn, mất ngủ
rồi sinh ra bệnh tương tư.
Sau khi tìm hiểu được nguyên nhân, bà mẹ
cầu viện pháp sư của Bà-la-môn xin câu Phạm thiên chú có tác dụng mê
hoặc đàn ông. Lần sau, khi thầy Anan đi qua đường làng này, thôn nữ
Madanga nhẩm đọc Phạm thiên chú khiến Anan quên hết mọi sự, từ từ đi
theo nàng vào phòng ngủ.
Bấy giờ, Đức Phật đang ngụ tại Kỳ Viên
tinh xá, biết được sự cố liền bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi trì niệm thần
chú Thủ Lăng Nghiêm mới bảo toàn được giới thể của thầy Anan.
Sau đó, nhân nguyên cớ này mà có pháp hội
Lăng Nghiêm để Phật tuyên thuyết đảnh chú Thủ Lăng Nghiêm dùng để đối
trị ái dục nam nữ, giúp tăng ni vượt qua cửa ải sắc dục, vững bước tiến
tu trên đường giải thoát.
Ba trường hợp có thật vừa kể trên chứng
minh sống động về công năng của mật chú. Thần chú mặc dù khác nhau nhưng
bất cứ ai nỗ lực và chí thành thực hành miên mật cũng đều sẽ được thành
tựu không thể nghĩ bàn.
CHỈ MỘT THẦN CHÚ MANI LÀ ĐỦ
Ngày nay, hầu hết những người theo đạo
Phật đều được nghe đến thuật ngữ “thần chú”. Mỗi vị Phật và đại Bồ Tát
đều có lưu xuất thần chú riêng, tùy theo nguyện lực của mình.
Trong rất nhiều thần chú, người ta thường
nghe nhắc đến thần chú “Om mani padme hum” tiếng Phạn (phát âm theo
tiếng Việt là: Ôm Ma Ni Pat Mê Hum). Đây gọi là thần chú “Lục tự đại
minh” hay gọi nôm na là thần chú sáu âm, thần chú sáu chữ, và cách gọi
chuẩn xác nhất là thần chú Mani...
Người Tây Tạng đọc chú này là “Om mani
peme hung”. Ở nước ta, trước đây người Phật tử thường đọc theo âm
Hán-Việt là “Án ma ni bát di hồng”.
Cho dù mỗi dân tộc có cách đọc khác nhau,
nhưng ai nấy đều biết đó là thần chú lưu xuất từ đại nguyện của Bồ Tát
Quán Thế Âm. Có lẽ quen thuộc nhất với câu thần chú này là người dân Tây
Tạng. Ở đó, từ thuở nhỏ các em bé chập chững tập nói đã bắt đầu đọc
thần chú “Om mani padme hum”. Người lớn thì luôn luôn tâm niệm câu thần
chú này. Họ còn khắc nó trên vách đá, trên cây, trên tường, làm bánh xe
xoay thần chú...
Người Tây Tạng tin rằng Bồ Tát Quán Thế Âm
là vị thần bảo hộ của Xứ Tuyết này, nên câu thần chú “Om mani padme
hum” từ lâu đã trở thành quen thuộc và thân thiết đối với họ. Có nhiều
người dân Tây Tạng chọn câu thần chú này làm pháp môn tu tập cho cả đời
mình. Từ khi nhập đạo cho đến lúc lâm chung, họ thường xuyên trì niệm
“Om mani padme hum”, hoặc rõ tiếng hoặc niệm thầm, hoặc ngâm nga trầm
bổng theo nhịp điệu.
Trong sách này, chúng ta chỉ đề cập đến
Lục tự đại minh thần chú (thần chú Mani) làm nòng cốt trong sự tu tập.
Sở dĩ có sự lựa chọn này là vì đức Phật Thích-ca đã xác quyết rằng Bồ
Tát Quán Thế Âm có nhân duyên sâu dày với chúng ta. Nhờ đó mà Ngài dễ
hóa độ chúng ta bằng những phương tiện thiện xảo của Ngài, trong đó có
thần chú Lục tự đại minh. Nhờ vào thần chú này, hành giả chúng ta sẽ dễ
dàng tương thông với thần lực từ cảnh giới thù thắng của Ngài với sức
gia trì vô dụng công.
Sau đây là bằng chứng xác thực được trích ra từ kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, phẩm thứ 12: Thấy, nghe đều được lợi ích:
“Đức Phật bảo Bồ Tát Quán Thế Âm: ‘Ông có
đại nhân duyên với thế giới Ta-bà. Nếu hàng trời, rồng, hoặc kẻ nam,
người nữ, hoặc thần hoặc quỷ, cho đến các chúng sanh tội khổ trong Lục
đạo, nghe danh hiệu của ông, thấy hình tượng của ông, mến tưởng đến ông,
khen ngợi ông, thì những chúng sanh ấy đều ở nơi Đạo Vô Thượng quyết
chẳng còn thối chuyển, thường được sanh vào cõi người, cõi trời, hưởng
đủ sự vui vi diệu; khi nhân quả sắp thành thục liền được Phật thọ ký
cho.’”
Kinh điển có ghi rằng Bồ Tát Quán Thế Âm
đã phát khởi 12 đại nguyện, trong đó nguyện rằng bất cứ ai trì niệm thần
chú của Ngài, thiền định về sắc tướng Ngài, niệm danh hiệu của Ngài,
đều sẽ tránh được 15 loại ác tử, còn được 15 loại thiện sanh, và giờ
phút lâm chung Ngài sẽ cùng Thánh chúng đến đón rước về cõi Tây phương
Cực lạc của Đức A-di-đà Phật.
Trong kinh Pháp Hoa cũng có dạy rằng, chỉ
cần thốt lên danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm hoặc đảnh lễ Ngài một lần
thôi, cũng tương đương với việc lễ lạy và cúng dường Hằng hà sa số chư
Phật.
Trong Mật kinh “Đại Bi Quán Tự Tại Thập Nhất Diện Thần Chú” có ghi rõ:
“Đối với chúng sanh bị giam cầm, thần chú
của Ta sẽ là mái ấm, một nơi che chở, một chốn nương thân, một người bạn
lữ của họ. Cho dù là loài quỷ dữ ăn thịt người và hung tợn đi nữa, nghe
thần chú này cũng phải hồi tâm cảnh tỉnh. Họ sẽ được dẫn dắt về nơi tối
thượng và hoàn toàn Giác ngộ. Theo đó thì hộ chú của Ta có một thần lực
vô biên. Hành giả nào biết trì tụng thần chú này, dù chỉ một biến, cũng
rửa sạch được tội ác ngũ nghịch và được gột rửa khỏi bất cứ tội chướng
nào...
“Thiết tưởng không còn gì để nghĩ bàn về
công đức của những người chí tâm chí thành tu tập pháp môn này như đã
được chỉ dạy. Thiết tưởng không còn gì để nghĩ bàn về những người chí
tâm trì tụng và thể nhập vào Ta trong sự thiền quán của họ. Mọi nguyện
ước của họ dĩ nhiên sẽ được thành tựu. Hành giả nào ghi nhớ danh hiệu Ta
trong tâm thức có sức rung cảm đến Hằng hà sa số chư Phật. Chúng sanh
nào tưởng nhớ đến danh hiệu của Ta đều đạt quả vị bất lai, đều tiêu trừ
mọi bệnh tật và được giải thoát khỏi mọi sở tri chướng, và mọi bất thiện
nghiệp về thân, khẩu, ý. Những hành giả tu tập pháp môn này một cách
tinh chuyên sẽ chóng thành Phật quả.”
Nên biết, Bồ Tát Quán Âm lưu xuất những
thần chú như thần chú Đại bi, thần chú Bát-nhã, thần chú Chuẩn Đề, thần
chú Đại bi Thập nhất diện... Tuy các thần chú khác nhau nhưng tựu trung
mọi thần chú của Ngài đều có công năng như nhau, không khác biệt, tùy
theo hành giả nào có duyên với câu chú nào thì trì niệm câu chú đó. Trên
thực tế, thần chú Lục tự đại minh là được phổ biến nhất.
Trên đây là những xác quyết trong kinh
điển Mật giáo và Hiển giáo, nhưng mới đây nhất là một bằng chứng sinh
động về duyên lành của chúng ta với Bồ Tát Quán Tự Tại qua nữ Delog Dawa
Drolma, người đã mất vào năm 1941.
Delog Dawa Drolma được công nhận là hóa
thân của Đức Tara Trắng, một năng lực mạnh mẽ của tâm giác ngộ vì sự
trường thọ và giải thoát cho chúng sanh. Dawa Drolma là thân mẫu của đạo
sư Chagdud Tulku, một thành tựu giả Kim cương thừa của Tây Tạng, qua
Hoa Kỳ vào năm 1979, thiết lập viện Chagdud Gonpa ở nhiều bang của Hoa
Kỳ, ở Canada và cả Brazil.
Trên hành trình đến các cõi bên kia cái
chết, Dawa Drolma đã được diện kiến Đức Quán Âm Tứ Thủ (Avalokiteshvara)
cao quý. Ngài miêu tả lại cảnh giới ở trụ xứ Potala của Đức Quán Âm Tứ
Thủ như sau:
“... Ở đây tôi tìm thấy một tòa lâu đài
đẹp tuyệt vời, tự xuất hiện và hình thành tức thời, tường làm bằng năm
lớp riêng biệt. Lâu đài này trong suốt nên có thể nhìn xuyên qua từ bên
trong cũng như bên ngoài, được nâng đỡ bằng một ngàn cột pha lê và tráng
lệ nhờ những đà mái làm bằng châu ngọc. Nó được tô điểm bởi những cái
rèm ánh sáng cầu vồng, như thể được thắp sáng bởi một ngàn mặt trời và
mặt trăng. Những đà tường làm bằng lam ngọc, đầu tường bằng san hô,
những bậc thang bằng ngọc trai.
“Chung quanh dinh thự làm bằng năm loại
châu báu này là một bậc thềm thấp bằng hồng ngọc, trên đó nhiều ngàn
thiên nữ cúng dường nhảy múa vui đùa. Phía trên là một mái vòm bằng
vàng, với những chiếc dù bằng lụa trắng và một Pháp luân có nai quỳ gối
và lắng nghe ở hai bên. Ở bốn bên của lâu đài là những đầu máng xối có
đầu makara, những sợi dây bằng ngọc trai treo từ miệng chúng với những
chiếc chuông và chuông chùm nhỏ xíu, phát ra những âm thanh thú vị.
“Bốn phía tòa lâu đài được trang trí bằng
bốn cửa. Tôi đi vào cửa phía tây và gặp một thiên nữ giác tánh nguyên
sơ. Đi sâu vào trong, tôi thấy vô số của cải và những thú vui cảm giác,
như thể đang ở trong một ảo
giác. Vô số những báu vật cúng dường được
sắp xếp một cách trang nhã nhất, thậm chí số lượng còn nhiều hơn cả của
cải của những đại thiên trong cõi trời Hóa lạc thiên.
“Ở giữa những thứ này, trên một hoa sen
trắng trăm ngàn cánh mở ra là Đức Quán Thế Âm cao quý, bậc điều phục
chúng sinh bi mẫn tối thượng, với vẻ thanh xuân của một thiếu niên 16
tuổi. Thân Ngài có sắc trắng chói lọi, một mặt và bốn tay. Đôi bàn tay
thứ nhất chắp lại nơi tim và cầm một viên ngọc. Bàn tay phải của đôi tay
thứ hai cầm một chuỗi hạt pha lê và bàn tay trái cầm một cành hoa sen
trắng nở ra rực rỡ cạnh tai Ngài. Tôi bị thu hút bởi những tướng chính
và phụ trên thân tướng toàn hảo của Ngài. Ngài mặc y phục bằng lụa và
những vật trang sức bằng những châu báu khác nhau, trên vai choàng bộ da
linh dương krisnasaranga trùm qua phía trái ngực. Ngài ngồi tréo chân
trong tư thế kim cương, thân Ngài chói lọi với vô số tia sáng. Trong tâm
tôi, Ngài không khác với Ngài Drimed Khakyod Wangpo, vị Lạt-ma gốc của
tôi...”
Trong bối cảnh trang nghiêm và tráng lệ
như thế Dawa Drolma được nghe Đức Quán Thế Âm ban Pháp âm về những đại
nguyện bi mẫn của Ngài, trong đó nhấn mạnh: “... Hãy trì niệm liên tục
thần chú sáu âm, chỉ một điều đó thôi là đủ.”
Không mảy may hư vọng, vì điều này được
nói ra bởi một bậc Đại thánh như Bồ Tát Quán Thế Âm. Trải qua nhiều thế
kỷ, hàng triệu hành giả Mật giáo đã trì niệm thần chú Lục tự đại minh Om
mani padme hum, đều được lợi lạc vô song. Đó là bằng chứng sống động về
năng lực siêu nhiên vi diệu của thần chú sáu âm này.
Đạo sư Patrul Rinpoche, một đại thành tựu
giả, phiêu bồng và lãng tử nhất ở xứ Kham thuộc Tây Tạng, vào thế kỷ thứ
19 (1808 – 1887), khi viết bản văn “Kho tàng Tâm của các Bậc Giác ngộ”
gồm 82 bài kệ, trở thành tác phẩm kinh điển của nhiều thế hệ hành giả
Mật giáo, luôn nhấn mạnh mỗi câu cuối của bài kệ là “Hãy trì tụng thần
chú sáu âm”. Đặc biệt, trong đoạn kệ 64 Ngài viết:
“Một Bổn tôn, Quán Thế Âm, hiện thân của tất cả chư Phật;
“Một thần chú, sáu âm, hiện thân của mọi thần chú;
“Một Pháp, tâm Bồ-đề, hiện thân của hết thảy thực hành trong giai đoạn phát triển và thành tựu.
“Biết cái một, điều đó giải thoát cho tất cả, hãy trì tụng thần chú sáu âm.”
Nhiều câu chuyện kể lại rằng Đạo sư Patrul
mỗi lần nhận được vật phẩm cúng dường thường gọi những anh thợ đẽo đá
và điêu khắc đến nhận hết. Ngài không quên động viên họ cố gắng khắc
thần chú Mani trên đá càng nhiều càng tốt.
Khi luận giải về giá trị vô song của thần
chú sáu âm, Đạo sư Dilgo Khyentse, thành tựu giả Mật tông (1910 – 1991)
khẳng định rằng thần chú có nhiều loại, nhưng không thần chú nào có thể
được xem là cao hơn thần chú sáu âm Om mani padme hum, vì nó bao gồm
không chỉ tất cả công năng mà còn tất cả năng lực và sự gia trì của mọi
thần chú khác.
Những bậc thánh trí quá khứ chẳng hạn như
ngài Karma Chagme vĩ đại (1613- 1678) đã tìm khắp trong kinh điển không
có một thần chú nào lợi lạc tinh túy hơn hay dễ dàng thực hành hơn thần
chú sáu âm. Bởi thế các ngài dùng thần chú này làm sự thực hành chính.
Thậm chí chỉ cần được nghe thần chú sáu âm
cũng đủ để giúp chúng sanh thoát khỏi sanh tử. Chuyện kể rằng, có lần
năm trăm con trùng giành giựt nhau để sống trong một hố đất bẩn thỉu. Bồ
Tát Quán Thế Âm thương xót cho sự đau khổ của chúng, liền hóa thành con
ong vàng bay trên cái hố, vo ve thần chú sáu âm. Những con trùng nghe
được âm thanh thần chú, liền thoát khỏi khổ đau và thác sanh vào cõi
trời.
Sáu âm trong thần chú Om mani padme hum
không phải là những âm thanh bình thường, là chuỗi âm thanh thế gian.
Trái lại, những âm thanh này chứa đựng tất cả sự gia trì và lòng từ bi
của Bồ Tát Quán Thế Âm. Nói cách khác, thần chú này chính là hiện thân
của Bồ Tát Quán Thế Âm trong hình thức âm thanh. Ngài thấu biết chúng ta
bị nghiệp báo ngăn che, không thể gặp gỡ Ngài trong cõi thuần tịnh của
Ngài, nên Ngài ban cho thần chú sáu âm để khi trì niệm, tụng đọc, viết
ra bằng chữ vàng... đều có tác dụng như chúng ta được hiện diện trước
Ngài. Sáu âm này biểu lộ sáu Ba-la-mật của Ngài, và như chính Ngài đã
khẳng định, bất cứ ai trì niệm thần chú sáu âm này sẽ tự nhiên dần dần
hoàn thiện đủ sáu Ba-la-mật và tịnh hóa mọi lỗi lầm, nghiệp chướng.
Chúng ta đã thấy được lòng bi mẫn diệu kỳ
của Bồ Tát Quán Thế Âm qua những luận giải và xác quyết của các bậc đạo
sư thành tựu như vừa nêu trên. Tuy vậy, không phải ai cũng được duyên
lành đến với Ngài qua nhịp cầu thần chú Mani. Trên thế giới có hơn 165
quốc gia và vùng lãnh thổ, chỉ có Tây Tạng được công nhận là trụ xứ của
thần chú Mani. Trong số những quốc gia theo Phật giáo, không phải nước
nào cũng có sự hiện diện của Mật chú thừa, bởi hầu hết đều hành trì theo
Đại thừa Hiển giáo hoặc Tiểu thừa. Trong những nước theo Phật giáo có
Mật giáo lưu hành, cũng không phải đều là “thuần Mật”, như ở Việt Nam,
Nhật Bản, Đài Loan, Malaysia, Singapore... Và trong những nước có phát
triển Mật giáo thuần túy như một số nước châu Âu, châu Mỹ, không phải
hành giả nào cũng thực hiện pháp môn trì niệm thần chú Mani. Đó là chưa
nói đến những quốc gia Trung Đông, nơi chỉ độc tôn Hồi giáo, hoặc các
nước châu Phi, là những nơi mà người ta hầu như không hề biết đến khái
niệm “thần chú”.
Bởi vậy, khi viết những dòng chữ này, tôi
vô cùng hoan hỷ trước duyên lành của những hành giả Mật giáo mà tôi được
biết chính xác là đã và đang hành trì thần chú Mani.
Ở thành phố Biên Hòa có vợ chồng đạo hữu
Mật Tấn, Mật Hạnh, hành trì gần 3 năm qua. Hai vợ chồng tuy mỗi người
một công việc mưu sinh riêng, nhưng cả hai đều hành trì đều đặn mỗi ngày
ít nhất là một lần. Họ dần dần xác lập được chánh kiến qua việc thờ tự
hình ảnh và ngẫu tượng.
Ở thành phố Vũng Tàu có đạo hữu Mật Hải
(trước kia pháp danh là Minh Liễu), đang là nhân viên ngân hàng, hành
trì Mật giáo miên mật hơn 4 năm qua. Mật Hải đọc nhiều giáo điển, am
hiểu giáo nghĩa, ứng dụng thành công trong sự tu tập và phát triển lòng
sùng mộ Tam bảo, là yếu tố cốt tủy của Mật thừa, là nền móng xây dựng
lâu đài Giác Ngộ.
Tại thành phố Hồ Chí Minh, quận 7, có đạo
hữu Mật Tuệ, sinh viên trường Cao đẳng Kinh tế Đối ngoại, đến với Mật
giáo hơn 6 năm qua, trong 2 năm gần đây miên mật hành trì thần chú Mani.
Mật Tuệ không những hành trì riêng mình mà còn thực hành giúp đỡ người
khác khi có cơ duyên.
Tại thành phố Đà Nẵng có đạo hữu Mật Giác,
có duyên lành tự mình tham cứu kinh sách Mật giáo rồi hành trì thần chú
Mani. Là một giám đốc cơ quan Nhà nước, có học vị thạc sĩ, đã công tác
qua 16 nước khác nhau trên thế giới, Mật Giác bén duyên với Mật giáo ở
tại quê hương mình. Thông qua tham cứu kinh sách Mật tông, đạo hữu Mật
Giác tự mình hành trì cho đến khi được gặp giáo thọ thiện tri thức.
Đặc biệt là Huệ Thông, một hành giả 17
tuổi, tuy thất học đường đời nhưng trên đường đạo Huệ Thông thực sự tỏ
rõ bản lĩnh của hành giả Mật giáo một cách bất ngờ. Huệ Thông học một
biết mười, biết ứng dụng, tận dụng những điều đã học trong mọi hoàn
cảnh, tình huống để cho câu thần chú được in sâu vào tâm thức.
Còn không ít trường hợp khác đến với Mật
giáo bằng nhiệt tâm và sáng suốt. Một đạo hữu ở thành phố Hồ Chí Minh ,
trước kia là thợ may, đã từng thực hành tâm linh nhiều năm trong đạo
Công giáo. Tuy vậy, làm sao để tháo gỡ ràng buộc thế gian? Câu hỏi dằn
vặt qua nhiều năm tháng! Cuối cùng đạo hữu ấy tìm được pháp môn thích
hợp và đem lại hiệu quả giải thoát toàn diện: trì niệm thần chú Mani!
Qua 6 năm hành trì, đạo hữu này trở thành một nữ hành giả có trình độ
tâm linh đáng kể, chuyển hóa hoàn toàn mọi nỗi lo sầu, ưu tư trước đây
thành niềm vui bất tận trong sự tu tập...
Hầu hết những hành giả kể trên đều nhờ
hành trì thần chú Mani mà được lợi lạc vô song, trong đời sống tinh thần
cũng như vật chất. Nhưng vấn đề cốt lõi ở đây không phải là giàu lên,
phát tài ra, có thêm nhiều tiện nghi vật chất... mà là tâm tư được thoải
mái với sự an lạc nội tại, giúp họ vượt qua dễ dàng những mối bận tâm
thế tục. Ở những người này dần dần hình thành niềm tự hào thiêng liêng
là đang hành trì thần chú Mani. Đạo hữu Mật Hạnh cho biết: “Tôi may mắn
được gặp Bồ Tát Quán Thế Âm qua câu thần chú Mani. Đã nhận thức được con
đường ngắn nhất và nhanh nhất để đạt đến Giải thoát, tôi bước đi bằng
niềm tin kiên định, đã trải nghiệm qua thực tế 2 năm nay.”
TƯỚNG TRẠNG CỦA THẦN CHÚ MANI
Nhiều hành giả Mật giáo suốt đời trì niệm
thần chú sáu âm với niềm tin không lay chuyển và lòng sùng mộ vô biên
Đức Quán Âm Tứ Thủ. Một khi niềm tin đã kiên cố thì người ta không cần
tìm hiểu thêm những góc cạnh khác của thần chú Mani. Tuy nhiên, để dọn
đường cho những hành giả sơ phát tâm tu tập bước đi dễ dàng vào đạo lộ
tinh tấn và trí huệ, trong sách này chúng tôi thiết nghĩ cần mô tả sơ
qua về cái gọi là tướng trạng của thần chú Mani.
Thần chú Mani có 6 âm, mỗi âm có một ý
nghĩa và công năng riêng. Khi trì chú thì những âm trong thần chú kết
thành tràng hoa, trang hoàng cho sự giải thoát. Giờ đây chúng ta sẽ đi
vào chi tiết.
Theo quan điểm Mật giáo Tây Tạng thì thần chú Mani được phân nghĩa chiết tự như sau:
OM có nghĩa là quy mạng, hướng cả 3 nghiệp thân, khẩu, ý về Phật pháp.
MANI có nghĩa là viên ngọc như ý của trí huệ.
PADME có nghĩa là bên trong hoa sen, tức là lòng Đại bi nảy nở tựa như hoa sen vươn lên khỏi bùn lầy.
HUM có nghĩa là ý nghĩa cao đẹp của cuộc sống.
Tóm lại, nội dung thần chú có thể tạm diễn
dịch như sau: “Viên ngọc như ý trong hoa sen trí huệ giúp con thoát
khỏi bùn lầy vô minh, làm cao đẹp cuộc sống.”
Theo giải thích của Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ XIV trong tác phẩm “Kindness Clarity and Insight” thì:
OM: tạo bằng 3 chữ A, U, M tượng trưng
cho thân, ngữ, tâm bất tịnh của hành giả, chúng cũng tượng trưng cho
thân, ngữ, tâm thuần tịnh của một vị Phật.
MANI: viên ngọc, tượng trưng cho
phương tiện đạt giác ngộ. Đại bi, Đại từ như là những viên ngọc như ý
thỏa mãn nguyện vọng của chúng sinh muốn đạt giác ngộ cho mình và đem
lại giác ngộ cho người khác.
PADME: hoa sen, trượng trưng cho Trí
huệ, bởi hoa sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Khi thiếu trí huệ
mọi rắc rối sẽ xảy ra với chúng ta
HUM: dấu hiệu hợp nhất của phương tiện và trí huệ để đạt được sự tịnh hóa hoàn toàn.
Tóm lại, qua thực hành hợp nhất giữa
phương tiện và trí huệ, chúng ta có khả năng làm cho thân, ngữ, tâm bất
tịnh của mình thành thân, ngữ, tâm thuần tịnh của một vị Phật.
Ngoài ra, theo giải thích của Đạo sư Tangtong Gyalbo thì:
OM: bao gồm năm trí siêu việt của chư Phật.
MANI: viên ngọc như ý (Bảo châu)
PADME: hoa sen. Hợp hai nghĩa này với
nhau thì MANI PADME có nghĩa là “Ngài là Bậc Thủ Trì Liên Hoa và Bảo
Châu” và đây cũng chính là tôn hiệu khác của Bồ Tát Quán Thế Âm.
HUM: có công năng bảo hộ chúng sanh trong sáu cõi luân hồi.
Tóm lại, ý nghĩa của thần chú Mani là:
“Hỡi Bậc Đạo sư của năm thân Phật và năm trí Như Lai, Bậc Trì thủ Liên
hoa Bảo châu! Xin Ngài hoan hỷ gia hộ chúng sinh trong sáu nẻo luân hồi
vượt qua thống khổ.”
Đạo sư Tangtong Gyalbo nhấn mạnh rằng,
thần chú Mani có nhiều cách giải thích khác nhau. Nhưng khi trì tụng
không nhất thiết phải nghĩ tới ý nghĩa. Trong cách tự nhiên, thần diệu
của sáu âm tiết thần chú phát ra từ tâm hay khẩu sẽ dần dần truyền đến
hành giả trí huệ và đại bi của Đức Quán Thế Âm. Từ đó, hành giả cũng sẽ
lan tỏa đến những chúng sanh liên hệ với mình trong hiện kiếp hoặc tiền
kiếp.
Nói chung, khi trì chú Mani thì chính ngay
lúc ấy chúng ta đóng cửa luân hồi trong sáu nẻo, hướng đến cõi tịnh độ
giải thoát. Tuy nhiên, tướng trạng của thần chú Mani không tách rời vị
Bổn tôn là Bồ Tát Quán Thế Âm. Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ XIV từng giải
thích trong luận đề về giáo lý Phật giáo được trình bày ở trường Đại học
Harvard (Hoa Kỳ) vào tháng 8 năm 1981 rằng, trì tụng thần chú trong bối
cảnh quán tưởng Bổn tôn có công năng mạnh mẽ hơn.
Thế nào là quán tưởng Bổn tôn? Đó là linh
ảnh của Đức Quán Âm Tứ Thủ mà hành giả quán tưởng trước mặt bằng cách
hưng vận tâm thức, đồng thời cùng lúc trì niệm thần chú.
Sau đây là vài nét sơ lược về quán tưởng Bổn tôn.
Quán tưởng là cách thực hành thiền quán
bằng việc niệm câu thần chú kết hợp với sự hình dung một vị Phật hay Đại
Bồ Tát do hành giả tự chọn theo hướng dẫn của vị thầy. Đây là một pháp
môn rất hữu hiệu của Mật tông.
Trước khi đi vào chi tiết, cần phải biết
qua một vài khía cạnh ngữ nghĩa. Pháp quán tưởng đang được đề cập ở đây
là sự quán chiếu và hình dung một đối tượng kính ngưỡng nhằm mục đích tu
tập. Điều này khác hẳn với sự tưởng tượng đơn thuần là thêu dệt ra
những hình ảnh mà mình ưa thích hoặc ham muốn, hoặc do sợ sệt... vốn đều
không có nền tảng của sự quán chiếu. Sự tưởng tượng như vậy chỉ là viễn
vông, không có ý nghĩa xác thực gì. Tuy nhiên, vì là một hoạt động của
tâm thức nên sự tưởng tượng đó vẫn có những sức mạnh, tiềm năng mạnh mẽ
của nó. Khi cường độ của sự tưởng tượng trở nên sâu sắc, mãnh liệt, nó
có thể khiến cho chủ thể của sự tưởng tượng sẽ nhận thức thực tại giống
như trong tưởng tượng của mình.
Trong nền kịch nghệ nhân loại, người ta
biết đến loại hoạt động tâm thức này qua vở kịch nổi tiếng “Người bệnh
tưởng” của Molière (1622-1673), một kịch sĩ tài hoa của nước Pháp. Trong
vở kịch, nhân vật chính luôn ám ảnh mình bị bệnh nặng, nhưng thực tế
anh ta không có bệnh. Hậu quả là anh ta gây ra nhiều trò dở khóc dở
cười, và kết cuộc anh chết vì căn bệnh tưởng hoàn toàn không có thật của
mình.
Trên sân khấu là vậy, nhưng trong thực tế
cũng có không ít trường hợp tương tự. Chẳng hạn, khi ở nơi hoang vắng
như nghĩa địa, rừng sâu, người lữ khách có thể sợ sệt vì tưởng tượng đến
quỷ ma. Đến một mức độ nào đó, anh ta có thể thấy ma quỷ xuất hiện...
cho dù thực tế đó chỉ là những cây khô hay các vật thể nào đó... Đó là
do sự tưởng tượng trong tâm thức chi phối nhận thức về thực tại khách
quan.
Phương pháp quán tưởng được nêu ra ở đây
để gia tăng oai lực của thần chú là hoàn toàn khác, vì việc hình dung
chính mình là vị Phật hay Bồ Tát (trong Mật giáo gọi là Bổn tôn) được
dựa trên một nền tảng có thật là sự tương đồng về các phẩm tính tốt đẹp
giữa bản thân hành giả với vị Bổn tôn được quán tưởng. Giải thích về
điều này, Lạt-ma Thubten Yeshe khẳng định rằng, khi quán tưởng chính
mình là Bổn tôn tức là ta đang kích hoạt những phẩm tính sâu xa tốt đẹp
nhất có sẵn trong ta, cái gọi là Phật tánh, Chân như.
Đương nhiên, khi quán tưởng mình là Bổn
tôn, chúng ta không phải tự dối mình, mà là thực sự đang làm hiển lộ
những phẩm tính thiêng liêng vốn luôn hiện hữu trong ta. Trước hết, hành
giả quán chiếu về những phẩm tính cao quý nơi vị Bổn tôn, như từ bi,
trí huệ...; tiếp đến, hành giả quán chiếu về những phẩm tính đó đang
tiềm ẩn trong chính mình, đang cần phải tu tập để hiển lộ, và qua đó
hành giả thấy được sự tương đồng giữa vị Bổn tôn với chính mình. Hành
giả càng “nhập vai” vào sự quán tưởng thì sự hình dung càng rõ nét và
năng lực thần chú càng gia tăng, bởi đối tượng trì niệm thần chú lúc ấy
không còn là phàm phu như chúng ta nữa, mà thông qua sức quán tưởng đã
trở thành tương đồng với vị Phật hoặc Bồ Tát được quán tưởng.
Đó là phương pháp quán tưởng vị Phật bên
trong. Nếu thấy khó thực hiện, chúng ta có thể chọn phương pháp đơn giản
hơn là quán tưởng vị Phật bên ngoài.
Theo cách này, chúng ta tôn trí linh ảnh
của vị Bổn tôn là Đức Quán Âm Tứ Thủ ngay trước mặt, với kích cỡ tùy
chọn khoảng 9 x 12 cm hoặc 20 x 25cm. Ngồi xuống trên tấm đệm, thư giãn
tâm trí rồi bắt đầu chiêm ngưỡng linh ảnh Ngài. Có thể nhìn ngắm Ngài
chi tiết hoặc toàn diện. Có nghĩa là tập trung vào từng chi tiết như
đầu, tay, chân, mão... của Ngài, hoặc nhìn ngắm toàn thể thánh tướng của
Ngài. Trong khi tập trung chiêm ngưỡng linh ảnh, chúng ta niệm thần chú
Mani.
Nói chung, việc trì niệm trong bối cảnh
quán tưởng Bổn tôn sẽ phát huy tối đa công năng thần chú. Bởi lẽ lúc bấy
giờ chúng ta bước vào kinh nghiệm của một niềm kiêu hãnh thiêng liêng
là hóa thân một vị Phật, Bồ Tát. Tâm thức vượt thoát khỏi mọi giới hạn
thông thường, được nâng lên một tầm cao giác ngộ. Tướng trạng thần chú
do đó sẽ phát ra những ba động quang minh vi tế, khiến hành giả được
trầm mình trong sóng lực tâm linh thần diệu. Từ đó có thể tương thông
với bản nguyện bi mẫn vô song của Bồ Tát Quán Thế Âm.
Mặt khác, khi trì chú Mani hành giả sẽ
được các loài quỷ thần, dù thiện dù ác, đều hết lòng ủng hộ, không để
những tai ương xâm hại đến chỗ ở, đừng nói gì vào tận cửa nhà. Kinh Địa
Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện đã xác quyết như thế trong Phẩm thứ 12.
Tướng trạng thần chú Mani còn được biểu
hiện ở khẩu lực của hành giả. Sau những năm tháng trì niệm, khẩu ngữ của
hành giả sẽ tuôn tràn những lời chánh ngữ, có ý nghĩa nội dung cùng với
sức thuyết phục cao. Phong mạo của hành giả dần dần chuyển qua đạo
phong cốt cách một cách tự nhiên không cần lưu tâm cố gắng. Đặc biệt là
lòng từ bi nảy nở trong hành giả mỗi ngày một lớn theo công phu trì niệm
thần chú Mani.
Những căn bệnh mãn tính tưởng chừng bất
trị sẽ dần dần giảm xuống cho đến khi hoàn toàn khỏi hẳn. Trong trường
hợp bệnh nan y không thể chữa lành, hành giả trì niệm thần chú Mani tuy
vẫn có sự đau khổ về thân xác nhưng trong tinh thần không còn sự lo sợ,
phiền não như trước kia...
Những biểu hiện đó cho thấy tướng trạng của thần chú Mani đã lộ xuất, chứng minh sống động công phu tu tập của hành giả.
Sẽ là thiếu sót nếu bàn về pháp thiền quán
Bổn tôn mà không đặc tả thánh tướng của Đức Quán Âm Tứ Thủ. Trong bài
nguyện nổi tiếng “Làm không gian ngập tràn lợi ích của chúng sinh”, Đạo
sư Tangtong Gyalbo mô tả như sau:
“Quy y Phật, Pháp và Thánh Tăng.
Cho đến khi con thành Chánh giác.
Nguyện các công đức con tạo được.
Như bố thí, trì giới, vân vân...
Khiến con thành Phật để độ sinh.
Chúng con chúng sanh đầy hư không.
Đảnh đầu đều có hoa sen trắng.
Và vầng trăng hiện Mật từ Hrih.
Đấng chí tôn thánh giả Quán Thế Âm.
Khiết bạch quang minh rực năm màu.
Mỉm cười bi mẫn nhìn sanh chúng.
Ngài có bốn tay thật nhiệm mầu.
Hai tay trong bốn, trên chắp lại.
Hai tay phía dưới của Ngài cầm.
Đóa hoa sen trắng, chuỗi pha lê.
Lụa châu trang sức nghiêm thánh thể.
Choàng ngực da nai đội bảo quan.
Trên mão có Phật A-mi-đà.
Đang ngồi trong thế già phu tọa.
Vầng nguyệt sau lưng thanh tịnh soi.
Ngài là chân tính là diệu thể.
Tất cả nương về để quy y.
Nay con đảnh lễ Quán Thế Âm.
Bậc thánh hoàn toàn không khuyết vọng.
Thân báo thanh tịnh suốt một màu.
Đỉnh đầu nghiêm sức viên mãn Phật.
Bi mẫn từ tâm nhìn chúng sanh...”
Có lẽ thánh tướng của Ngài được miêu tả
mới nhất là trong chuyện kể của Delog Dawa Drolma khi bà được may mắn du
hành đến cảnh giới của Ngài. Đối chiếu với những gì miêu tả trong kinh
điển đều thấy chính xác và giống nhau.
MỘT ĐỜI NGƯỜI, MỘT CÂU THẦN CHÚ
Đời người ngắn ngủi, bất quá chỉ được trăm
năm. Trong đó, thời gian dành cho ăn ngủ, công việc, giải trí... chiếm
hết khoảng 80%. Thời gian thực sự đến với thực hành giáo pháp, dù bất kỳ
tôn giáo nào, cũng thật hiếm có. Đó là chưa kể đến bản tính giải đãi,
tập quán ương ngạnh và niệm tưởng bất chánh khiến chúng sanh cứ mãi lang
thang trong vực sâu tăm tối của tam đồ ác khổ.
Đức Quán Thế Âm dõi mắt xót thương muôn
loài nên Ngài bi mẫn chỉ ra một mô thức cao siêu vi diệu, giúp chúng
sanh vượt cõi luân hồi vào tịnh độ. Ngài dạy:
“Thiền quán về thánh tướng của Ta, trì
tụng tâm chú của Ta, và cử hành nghi lễ chay tịnh vì Ta. Những ai nỗ
lực thực hành như thế, mặc dù họ từng phạm một trong các tội ác ngũ
nghịch đáng đọa vào địa ngục Vô gián, Ta vẫn sẽ dẫn họ tới cõi Cực Lạc
Tây Phương.”
Đây là thông điệp mới nhất mà Ngài đã phán truyền lại cho Delog Dawa Drolma vào đầu thế kỷ 20.
Đạo sư Dilgo Khyentse khi bình giảng tác
phẩm “Kho tàng tâm của các bậc Giác Ngộ” của Đại thành tựu giả Patrul
Rinpoche cũng đưa ra những lời khuyên chân thành dành cho công việc ý
nghĩa nhất của đời người:
“Trong thời đại suy đồi này, vì trí năng
hạn hẹp và thiếu quyết tâm, người ta cần thực hành Pháp trong một hình
thức được tinh chế. Sự thực hành phối hợp lòng sùng mộ vị thầy như Bồ
Tát Quán Thế Âm, kết hợp với trì tụng thần chú Mani (Om mani padme hum)
đáp ứng tốt cho nhu cầu ấy. Thần chú Mani rất dễ nhớ để trì tụng nhưng
lại tập trung tinh hoa của kinh điển Phật giáo. Nó là tinh túy tâm đại
bi của Bồ Tát Quán Thế Âm và sức gia trì là vô cùng, vô tận. Nếu bạn lấy
nó làm sự thực hành chính cho mình thì người, trời và ngay cả nhưng ma
quỷ xấu ác cũng sẽ tự nguyện giúp đỡ bạn, và bạn sẽ có một đời sống lâu
dài, thoát khỏi bệnh tật và chướng ngại. Trong đời sau, bạn sẽ được sanh
vào cõi Cực Lạc của trụ xứ Potala, hay ít nhất cũng vào một quốc độ có
Phật pháp thịnh hành. Đó là bởi thần chú Quán Thế Âm chứa đựng sự gia
trì và lòng bi mẫn vô biên của chư Phật...”
Qua đây, chúng ta nhận thức rằng cuộc đời
chỉ có ý nghĩa khi ta biết thực hành Chánh pháp. Kinh điển Phật giáo
khẳng định sự cao quý của loài người chỉ thể hiện thực sự khi họ biết tu
tập Phật pháp để vượt sinh tử luân hồi. Vì các loài thuộc cảnh giới cao
hơn như loài trời, loài thần cũng đều không có khả năng thích hợp cho
việc tu tập Phật pháp như loài người. Và trong việc tu tập Phật pháp vào
thời đại suy đồi này thì chỉ có thực hành trì tụng thần chú Mani là
thích hợp nhất, mang lại hiệu quả cao nhất. Bởi vậy, một đời người sẽ có
được giá trị đích thực nhờ sự nối kết với một câu thần chú tinh túy sáu
âm của Bồ Tát Quán Thế Âm.
Chuyện kể rằng, vào thế kỷ 10 có một công
chúa của vương quốc Ấn Độ, xuất gia khi còn trẻ, có pháp danh là
Gelongma Palmo (hay tỳ-kheo ni Lakshmi). Bà thọ nhận nhiều giáo lý từ
những Đạo sư vĩ đại và thực hành tinh tấn miên mật. Do nghiệp quá khứ
chín mùi, bà bị mắc bệnh phong cùi, bị mọi người xa lánh, ném vào rừng.
Bà có thị kiến về Vua Indrabodhi, Ngài khuyên bà nên thực hành pháp
Avalokiteshvara (tức là pháp môn của Bồ Tát Quán Thế Âm).
Bà đã trì chú của Đức Quán Thế Âm nhiều
năm liền và liên tục thực hành nhập thất Nyungne, là một thực hành chay
tịnh đặc biệt để tịnh hóa nghiệp chướng và tăng thêm sinh khí cho hành
giả. Nhờ lòng sùng mộ và tinh tấn không ngừng, bà dần dần khỏi hẳn bệnh
phong cùi. Bà cũng đồng thời phát triển tâm đại bi vô hạn đối với mọi
chúng sanh. Bà trở thành ni sư giác ngộ, dẫn dắt nhiều đệ tử trong việc
thực hành pháp môn của Bồ Tát Quán Thế Âm.
Một hành giả vĩ đại khác suốt đời hành trì
pháp Quán Thế Âm là Tangtong Gyalbo (1385-1509). Ngài sinh ra ở miền
Tsang thượng của Tây Tạng. Một hôm, khi đang thực hành trì niệm thần chú
Mani, Đức Quán Thế Âm siêu phàm hiện ra trước mắt Ngài và chỉ dạy, ban
phép quán đảnh. Ngài đạt giác ngộ nhờ tinh tấn tu hành. Dựa trên sự
thành tựu của mình, Ngài biên soạn Nghi quỹ thực hành pháp “Làm không
gian ngập tràn lợi ích của chúng sanh” để hướng dẫn chúng sanh thực hành
pháp tu Quán Thế Âm. Sau khi giác ngộ, Ngài cũng khám phá nhiều bí lục
giáo pháp và giới thiệu cho nhiều người tu học. Ngài đã tôn tạo vô số
hình tượng, tháp thờ... tượng trưng cho thân, ngữ, tâm của Đức Phật.
Ngài đã xây dựng hơn 100 cầu, phà và cầu treo bằng sắt để làm lợi ích
cho chúng sanh. Để khuyến khích thiện hạnh trong dân chúng và để hỗ trợ
cho phí tổn công việc xây dựng, Ngài đã miêu tả cuộc đời những Bồ Tát
trong quá khứ, đặc biệt là Bồ Tát Quán Thế Âm bằng hình thức biểu diễn
nhạc kịch dân gian. Hoạt động hoằng dương giáo pháp, hóa độ quần sanh
của Ngài thật là không thể nghĩ bàn...
Để có thêm luận cứ về xác quyết trên,
chúng ta có thể tham cứu thêm những lời tâm huyết của Lạt-ma Zopa
Rinpoche, người hiện nay đang lãnh đạo Tổ chức Bảo vệ Truyền thống Phật
giáo Đại thừa trên thế giới. Lời dạy của Ngài thông qua bài giảng mang
tựa đề “Những ích lợi của việc trì tụng thần chú Om mani padme hum”.
Đương nhiên, dù chỉ một lần đọc tụng thần chú Mani cũng được lợi lạc vô
cùng, nhưng để được kết quả khả quan trong đời hiện tại và đời sau nữa,
chúng ta cần tinh tấn trì niệm suốt một đời người. Sau đây là bản văn
chi tiết:
“Những ích lợi của việc trì tụng thần chú của Đức Phật Bi Mẫn thật là vô biên, như bầu trời bao la vô tận.
“Cho dù bạn không hiểu biết nhiều về Pháp,
cho dù điều duy nhất bạn biết chỉ là câu thần chú Om mani padme hum thì
cuộc đời hạnh phúc nhất vẫn là cuộc đời được sống với một thái độ giải
thoát khỏi tám mối bận tâm thế tục. Nếu bạn sống cuộc đời mình với thái
độ trong sạch, thoát khỏi bám luyến với cuộc đời này và chỉ đơn thuần
trải đời mình trong việc trì tụng Om mani padme hum, thì đó là Pháp
thanh tịnh nhất.
“Việc trì tụng có vẻ rất đơn giản, rất dễ
dàng. Nhưng nếu bạn nghĩ tưởng về những lợi lạc của nó, thì điều đó hoàn
toàn không đơn giản. Ở đây tôi sẽ đề cập cốt lõi của những lợi lạc vô
biên đó.
“Trì tụng thần chú của Đức Phật Bi Mẫn này
chỉ một lần sẽ hoàn toàn tịnh hóa sự phá vỡ bốn giới nguyện gốc của
Biệt giới giải thoát, và năm tội nghịch đáng đọa vào địa ngục Vô gián.
“Trong các tantra (mật điển) cũng đề cập
rằng, nhờ trì tụng thần chú này bạn sẽ thành tựu bốn phẩm tính để sinh
vào cõi Tịnh độ của Đức Phật A-di-đà và những cõi Tịnh độ khác; vào lúc
lâm chung sẽ được thấy Đức Phật và hào quang xuất hiện trên bầu trời; có
chư thiên hiện ra cúng dường; không bao giờ bị tái sanh vào các cõi địa
ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Bạn sẽ tái sanh trong cõi Tịnh độ của Đức Phật
hay vào một cõi tái sinh tốt đẹp.
“Khi một người trì tụng mỗi ngày 10 chuỗi
thần chú này bơi lội trong sông, biển... thì nước chạm vào thân thể
người ấy cũng có được sức gia trì.
“Ta cũng được biết rằng bảy đời tổ tiên
của người đó không còn bị tái sinh trong các cõi thấp. Đó là nhờ năng
lực của thần chú, thân thể với lực gia trì của những người trì tụng thần
chú và quán tưởng chính họ trong thánh tướng của đức Quán Thế Âm trở
nên mạnh mẽ với lực gia trì động đến tâm thức cho tới bảy đời và kết quả
là nếu người ấy chết với một niệm tưởng bất thiện, người ấy cũng sẽ
không bị tái sanh vào các cõi thấp.
“Vì thế, khi một người mỗi ngày từng trì
tụng 10 chuỗi thần chú Om mani padme hum đi xuống sông hay biển, nước
chạm vào thân người ấy cũng sẽ có được lực gia trì, rồi chất nước có lực
gia trì đó sẽ có thể tịnh hóa hàng tỉ tỉ chúng sinh sống trong nước.
Người này cứu giúp những sinh vật trong nước đó thoát khỏi nỗi khổ không
thể tưởng tượng được ở các cõi thấp. Lợi lạc như vậy thật đến mức khó
tin!
“Khi một người trì chú như thế đi trên
đường, gió chạm vào người ấy và sau đó tiếp tục chạm vào những côn trùng
có thể giúp cho những nghiệp bất thiện của chúng được tịnh hóa, và nhờ
đó chúng sẽ có một tái sinh tốt đẹp. Tương tự như vậy, khi người ấy xúc
chạm vào thân người khác, nghiệp bất thiện của người kia cũng sẽ được
tịnh hóa.
“Một người như thế thì việc ngắm nhìn cũng
thật ý nghĩa! Việc nhìn và xúc chạm trở thành phương tiện để giải thoát
chúng sinh. Điều này có nghĩa là thậm chí hơi thở của người đó chạm vào
thân của chúng sinh khác cũng tịnh hóa được nghiệp bất thiện của họ.
Bất kỳ sinh vật nào uống nước trong dòng chảy từng có người trì chú như
thế bơi lội cũng đều được tịnh hóa.
“Chúng ta may mắn lạ lùng là đã gặp được
Pháp và có cơ hội để trì tụng và thiền quán về Đức Phật Bi Mẫn. Đó là
phương pháp dễ dàng tịnh hóa bất kỳ nghiệp bất thiện nào mà ta từng tích
tập, không chỉ trong đời này mà còn trong nhiều đời trước nữa.
“Bởi chúng ta từng gặp được Phật pháp và
đặc biệt là phương pháp [trì chú] này, thật dễ dàng để tịnh hóa nghiệp
bất thiện và tích tập công đức vô biên, và do đó thành tựu Giác ngộ.
Chúng ta thật may mắn không ngờ.
“Như thế, chẳng còn gì ngu muội hơn việc
không chịu sử dụng sự thuận lợi của cơ hội làm người này. Nói chung,
chúng ta thường xao lãng và phí phạm cuộc đời mình. Không chỉ có thế,
mọi hành vi về thân, ngữ, tâm đều bị hoen ố bởi tham, sân, si, tạo nên
nghiệp bất thiện, là nguyên nhân của đau khổ. Trong cả cuộc đời, không
còn gì ngu muội hơn việc sử dụng thân người hoàn hảo này chỉ để tạo nên
đau khổ...”
Trong khi những dòng chữ này đang được
viết ra thì ở Tây Tạng, Nepal, Ấn Độ và Ladakh đều đang thực hiện khóa
nhập thất Quán Âm Tứ Thủ và trì niệm 100 triệu biến thần chú Om mani
padme hum. Khóa nhập thất này cũng được tổ chức ở Viện Chenrezig dưới sự
hướng dẫn của Tổ chức FPMT (Tổ chức Bảo vệ Truyền thống Đại thừa), mỗi
năm chỉ diễn ra một lần!
Ở nước ta chưa có những cuộc nhập thất như
vậy, mặc dù không thiếu phương tiện và điều kiện tổ chức. Một số tăng
ni cho rằng trì niệm thần chú chỉ để phát triển thần thông, không liên
quan gì đến tinh thần từ bi của Đại thừa. Song, vấn đề không phải vậy.
Bởi thần chú là bản tâm của chư Phật, cho nên càng trì niệm bao nhiêu,
hành giả càng đến gần với bản tâm của chư Phật bấy nhiêu, cho đến khi
trở thành hợp nhất. Nhận định về luận điểm này, Lạt-ma Thubten Zopa
nói:
“Cho dù bạn hiểu biết giáo lý về cách
thiền quán tâm Bồ-đề, bạn vẫn cần thọ nhận những lực gia trì đặc biệt
của vị Bổn tôn, Đức Phật Bi Mẫn. Bạn nhận những lực gia trì này bằng
cách thực hiện thiền định và trì niệm thần chú Om mani padme hum. Như
thế, việc thực hành tâm linh này cũng là một phương pháp thể nhập tâm
Bồ-đề, chuyển hóa tâm bạn thành tâm Bồ-đề và làm cho việc thiền quán tâm
Bồ-đề của bạn có hiệu quả.”
Lạt-ma Zopa còn cho biết, ở trụ xứ của
Ngài tại Solu Khumbu trong rặng Hy-mã-lạp sơn thuộc địa giới Nepal có
những người sống cuộc đời bằng việc làm duy nhất: Trì tụng Om mani padme
hum, nhưng không biết một chút gì về giáo nghĩa. Mặc dù họ không thể
đọc được chữ viết, nhưng họ có lòng sùng mộ vĩ đại đối với Bồ Tát Quán
Thế Âm. Và như thế họ trải nghiệm một cuộc sống ý nghĩa cao cả mà chính
bản thân họ cũng không ngờ được.
Dĩ nhiên, mỗi hành giả Mật chú thừa cần
phải nhận lễ Quán Đảnh để cho sự hành trì thần chú Mani được kết quả
cao, đặc biệt là nhận được nhiều sự gia trì từ Bổn tôn, Đạo sư, Dakini. Ý
nghĩa của việc Quán Đảnh như thế nào, người viết đã có lần đề cập
đếntrong một tác phẩm trước đây.
Trong trường hợp chưa được nhận phép Quán
Đảnh, hành giả vẫn có thể hành trì cho đến khi có duyên lành gặp được
thiện tri thức, đạo sư, chứ không vì vậy mà cô phụ lòng bi mẫn của Đức
Quán Thế Âm. Đó là trường hợp của đạo hữu Mật Giác tại thành phố Đà
Nẵng.
VƯỢT LUÂN HỒI VÀO TỊNH ĐỘ
Nhờ nguyện lực vô song của Bồ Tát Quán Thế
Âm, thần chú Mani của Ngài mang đến lợi ích cho vô lượng chúng sanh
trong sáu cõi luân hồi. Từ việc được nghe, đọc tụng cho đến trì niệm và
quán tưởng, liên hệ đến sáu âm Om mani padme hum đều được lợi lạc không
thể nghĩ bàn.
Tuy nhiên, do căn cơ của mỗi người đều
khác biệt, cho nên cần biết phương pháp hành trì thần chú Lục tự đại
minh này để phát huy hết nội lực của mình.
Cũng như những hoạt động tâm linh khác,
phương pháp hành trì thần chú Mani nên đi từ mức độ dễ đến khó, từ giản
đơn cho đến tinh tế. Song, ở bất kỳ trình độ nào mà hành giả có sự
chuyên chú, nhất tâm đều sẽ triển khai được thần lực của thần chú. Tất
cả hoạt động của thân, ngữ, tâm để phát ra câu thần chú Mani một cách
đều đặn, thường xuyên gọi là “trì chú”. Giờ đây chúng ta đi vào từng cấp
độ một: thần chú thông dụng, đại thần chú, đại minh thần chú, vô thượng
thần chú, vô đẳng đẳng thần chú.
1. Thần chú thông dụng: hành giả đọc,
tụng, trì niệm sáu âm Om mani padme hum bằng khẩu và ý. Khẩu là đọc hoặc
tụng, ý là niệm thầm trong tâm trí.
2. Đại thần chú: Cách trì chú cũng như
trên nhưng bổ sung thêm thủ ấn. Trong kinh “Mật giáo Đà la ni thủ ấn đồ
tập”, thủ ấn đi kèm theo thần chú Mani là “Quán Âm Thanh Cảnh Ấn”.
3. Đại minh thần chú: Cách trì chú
cũng như cách thứ hai nhưng khi trì chú, hành giả dùng cách niệm kim
cương vào ra theo hơi thở. Thở vào niệm Om mani, thở ra niệm Padme hum.
4. Thần chú vô thượng: Cách trì chú
cũng như cách thứ ba nhưng hành giả cần đi thêm một bước nữa là quán
tưởng hình ảnh Bổn tôn (Quán Âm Tứ Thủ) ở trên đầu hoặc trước mặt.
5. Thần chú vô đẳng đẳng: Cách trì chú giống cách cách thứ ba nhưng ở đây hành giả quán tưởng chính mình là vị Bổn tôn.
Như đã nêu trên, trong 4 oai nghi của con
người thì khi ngồi theo thế kiết già hành giả sẽ trì chú có hiệu quả
nhất. Trong trường hợp đi đường, lái xe, ngồi xe buýt, máy bay... hoặc
ngồi chờ ai đó nơi công sở... hành giả nên sử dụng cách trì chú thứ nhất
là tiện lợi nhất. Cách trì chú thứ tư và thứ năm tức là “thần chú vô
thượng”, “thần chú vô đẳng đẳng” khó thực hành hơn. Chỉ khi nào thuần
thục quán tưởng trong thiền phòng hoặc thiền đường rồi mới có thể áp
dụng ở những nơi khác.
Chúng ta đã biết công năng không thể nghĩ
bàn của thần chú Mani. Tuy nhiên, tùy theo mỗi cấp độ mà hiệu quả có
phần khác nhau. Thuần thục ở hai cấp độ của “thần chú thông dụng” và
“đại thần chú”, hành giả phát huy được thần thông thông thường (kính ái,
tăng ích, tiêu tai, hàng phục, câu triệu).
Ở cấp độ “thần chú đại minh” khi đã thuần
thục, tâm thức của hành giả hòa nhập với cõi trời Sắc giới (đạt định từ
cấp một đến cấp bốn). Lúc này, hành giả đạt được thắng trí, có thể khai
triển thần thông dễ dàng và lợi mãnh hơn hai cấp độ đầu.
Ở cấp độ của “thần chú vô thượng” (có
nghĩa là không gì cao hơn) hành giả bắt đầu bước vào mép cửa của thần
thông tối thượng là trí huệ Bát-nhã.
Sau khi thuần thục ở cấp độ “thần chú vô
thượng” hành giả đi vào căn nhà trí huệ Bát-nhã như nó là của mình, cho
nên gọi là “thần chú vô đẳng đẳng” (không gì có thể so sánh được). Trong
giai đoạn trì niệm này, hành giả dần dần thẩm nhập trí huệ Bát-nhã mà
cụ thể là các loại trí huệ như: đại huệ, minh huệ, diệu huệ, pháp huệ,
trí huệ biện tài vô ngại, trí huệ tổng hợp. (Geshe Achaya Thubten Loden
viết trong tác phẩm “Biển Phương tiện và Trí huệ bất khả phân).
Ở đây cần giải thích trí thứ sáu là “trí
huệ biện tài vô ngại”, còn gọi là “Tứ vô ngại biện”, tức là bốn loại tài
trí biện luận không bị ngăn ngại như sau:
1. Pháp vô ngại biện: rõ biết tất cả
các pháp không ngăn ngại, từ các pháp của hàng Thanh văn, Duyên giác cho
đến hàng Bồ Tát hay chư Phật.
2. Nghĩa vô ngại biện: rõ biết nghĩa
lý không ngăn ngại, tuy có phân ra ba thừa khác nhau biết rõ là rốt ráo
chỉ quy về một thừa chân thật, không thấy là có tướng khác nhau.
3. Từ vô ngại biện: khả năng sử dụng ngôn từ không ngăn ngại, đối với một pháp vẫn có thể tùy nghi sử dụng vô số tên gọi.
4. Nhạo thuyết vô ngại biện: khả năng
thuyết pháp không ngăn ngại, có thể vì chúng sanh hoan hỷ diễn thuyết
tất cả các pháp, khiến người nghe vui thích.
Bảy trí huệ trên thành tựu, hành giả sẽ
được Ngũ trí Như Lai: đó là Diệu quán sát trí, Đại viên cảnh trí, Bình
đẳng tánh trí, Thành sở tác trí và Pháp giới trí. Lúc đó gọi là trí huệ
của vị Phật chánh đẳng chánh giác.
Trên con đường Bồ Tát Đại thừa, hành giả
phải đi qua tuần tự năm con đường đạo gọi là “ngũ đạo lộ”, tức là trải
qua 51 nấc thang tu tiến, nhưng trong Mật thừa thì pháp môn trì chú cũng
giúp cho hành giả tự nhiên được đi qua các đạo lộ đó. Đây là luận giải
của Đạo sư Tultsim Gyaltsen, đại hành giả Mật tông của Tây Tạng, xuất
thân từ tu viện Ganden, sáng lập ra Đại học Phật giáo Mật tông Thubten
Dhargye Ling, ở Long Beach, bang California, Hoa Kỳ.
Ngài cho rằng “Đại thần chú” liên hệ đến
Tư lương đạo (giai đoạn tích lũy), “Đại minh chú” liên hệ đến Gia hành
đạo (giai đoạn chuẩn bị), “Vô thượng thần chú” liên hệ đến Kiến đạo
(giai đoạn thấu hiểu) và “Vô đẳng đẳng thần chú” liên hệ đến Thiền định
đạo (giai đoạn tu tập), được chỉ ra trong năm đạo lộ phải đi qua của Bồ
Tát Đại thừa. Từ đây có thể cho chúng ta thấy giá trị vô song của thần
chú Mani.
Qua luận giải, chúng ta đã nhận thức sâu
sắc về tướng trạng của thần chú, công năng cao siêu vi diệu của thần
chú. Nhưng để được như vậy, chúng ta phải sử dụng “Ba phương tiện tối
thượng”:
– Thứ nhất là chuẩn bị tâm qua việc phát tâm Bồ-đề.
– Thứ nhì là pháp thực hành chính yếu, tức là trì niệm thần chú Lục tự đại minh không xao lãng.
– Thứ ba là kết thúc mỗi thời khóa hành trì chúng ta đều hồi hướng công đức vì lợi ích của tất cả chúng sanh.
Trong tác phẩm “Diệu pháp đạt Giác Ngộ” Đạo sư Dilgo Khyentse nhấn mạnh:
“Ba phương tiện này phải được ứng dụng cho
bất cứ pháp thực hành nào, dù chỉ là trong giai đoạn phát sinh hay giai
đoạn thành tựu của Mật giáo, hoặc đối với pháp hành Đại thủ ấn, Đại
toàn thiện, Trung đạo. Thiếu một trong Ba phương tiện này thì không thể
đạt được kết quả tốt.”
Cụ thể chi tiết của nghi quỹ hành trì thần chú Mani được trình bày rõ ràng như sau:
Phương tiện thứ nhất:
Trong đạo phục nghiêm trang, hành giả ngồi kiết già hoặc bán già trên tọa cụ xướng ngôn:
“Đệ tử là... xin quy y Đạo sư, quy y Phật,
quy y Pháp, quy y Tăng từ đây cho đến khi giác ngộ tối thượng! (3 lần)
Để giải thoát chúng sanh khỏi lục đạo luân hồi, đệ tử hôm nay thực hành
trì chú Mani, xin Đức Bổn tôn chứng minh và gia hộ!”
Phương tiện thứ nhì:
Hành giả đi vào phần chính cũng tác bạch Bổn tôn:
“Giờ đây đệ tử bước vào phần chính của trì chú, xin Đức Bổn tôn gia trì thần lực.”
Hành giả bắt đầu trì chú
Tùy theo trình độ, mỗi hành giả trì niệm
các cấp độ thần chú khác nhau. Riêng “thần chú vô thượng” và “thần chú
vô đẳng đẳng” có phối hợp quán tưởng Bổn tôn bên ngoài và bên trong nên
hành giả cũng cần tiến hành tuần tự theo diễn trình sau đây:
– Đối với Bổn tôn bên ngoài, hành giả quán
tưởng trên đầu một hoa sen lớn màu trắng hoặc màu khác tùy theo sở
thích, trên đó là một chủng tự Hrih tỏa hào quang. Lúc này, hành giả bắt
ấn triệu thỉnh và niệm tinh túy thần chú là 3 âm : OM AH HUM. Liền sau
đó linh ảnh của Quán Âm Tứ Thủ hiện lên từ chỗ chủng tự. Bấy giờ trong
tâm thức hành giả, thánh tướng của Ngài dần dần xuất hiện đầy đủ những
tướng hảo chánh và phụ.
– Nếu không quán tưởng được như trên hành
giả chỉ cần đọc bài nguyện “Làm không gian ngập tràn lợi ích của chúng
sanh” của Đạo sư Tangtong Gyalbo là Bổn tôn sẽ xuất hiện trên đỉnh đầu.
Trong bối cảnh có Bổn tôn lấp lánh hào quang, đôi mắt bi mẫn nhìn chúng
sanh, hành giả trì niệm thần chú Om mani padme hum.
– Để quán tưởng Bổn tôn bên trong, hành
giả dùng thủ ấn thỉnh nhập niệm Om ah hum, hình dung Bổn tôn trên đầu
hòa nhập với ta thành một. Bấy giờ hành giả mang thánh tướng của Bổn tôn
với đầy đủ những tướng chánh và phụ của Bồ Tát đẳng giác. Lúc này, hành
giả trì niệm thần chú Mani cũng không gì khác biệt với Đức Quán Âm Tứ
Thủ tuyên thuyết thần chú. Muôn ngàn tia sáng đủ màu phóng xuất ra từ
hành giả trong thân tướng Bồ Tát làm lợi lạc chúng sanh muôn loài đang
khổ đau và mong cầu giải thoát. Ánh sáng màu trắng làm lợi lạc cho những
người thân (cha mẹ, ông bà, anh em... đã chết) ở vị trí bên tay trái
hành giả; ánh sáng vàng làm lợi lạc cho những người thân đang còn sống, ở
bên tay phải hành giả; ánh sáng màu đỏ làm lợi lạc cho những kẻ thù, kẻ
đối nghịch, ở phía trước mặt hành giả; ánh sáng màu xanh làm lợi lạc
cho bằng hữu của hành giả, ở phía sau lưng; ánh sáng màu tím nhạt làm
lợi lạc cho những oan hồn uổng tử, ở về phía sau chót.
Công phu càng sâu dày, thần chú của hành
giả càng phát ra công năng mãnh liệt, cho đến khi hành giả và vị Bổn tôn
trở thành tương thông hợp nhất. Đây là công phu của “thần chú vô đẳng
đẳng”. Sau thời thiền, hành giả quán tưởng những ánh sáng năm màu ấy
biến thành hàng ngàn, hàng vạn quả cầu nhập vào tim hành giả. Từ đây,
hành giả trong thánh tướng Bổn tôn thể nhập vào tim Phật A-di-đà ở trên
cao, đang chứng minh sự gia trì của hành giả trong thánh tướng Bổn tôn
đến tất cả chúng sanh. Sau đó, toàn thân Phật A-di-đà biến thành ánh
sáng hoàng kim, phóng xuất về trụ xứ Tây phương Cực lạc. Hành giả an trú
trong trạng thái đó cho đến khi không còn tập trung được nữa.
3. Phương tiện thứ ba
Hành giả bắt ấn xả thiền rồi đọc kệ hồi hướng:
“Nguyện đem công đức này.
Hướng về khắp tất cả.
Đệ tử và chúng sanh.
Đều trọn thành Phật đạo.”
Đạo sư Dilgo Khyentse dạy rằng:
“Khi công đức được hồi hướng, quả tốt của
công đức sẽ gia tăng liên tục thay vì tàn lụi dần, như chất men theo
thời gian sẽ nảy nở thêm. Khi hành giả hồi hướng, nên ý thức rõ ràng về
việc hồi hướng của mình, giống như đang dâng lễ vật cho từng chúng sanh
một. Không nên nghĩ rằng công đức được chia ra cho mọi chúng sinh, mà là
mọi chúng sanh đều sẽ nhận được trọn vẹn công đức đó...”
Tóm lại, mọi hoạt động tâm linh dựa trên
ba phương tiện tối thượng này, thì dù một việc nhỏ nhặt cũng sẽ mang lại
cho hành giả những lợi ích vô cùng. Đây là nền móng giúp cho hành giả
xây dựng lâu đài Giác ngộ ở Cực lạc Tây phương.
TỰ QUYẾT ĐỊNH VẬN MỆNH TÂM LINH
Người Phật tử tại gia nếu giữ được trọn
vẹn Năm giới (Ngũ giới) thì sau khi chết chắc chắn sẽ được tái sanh vào
cõi người. Năm giới đó là: không giết hại, không trộm cắp, không nói
dối, không tà dâm và không uống rượu.
Tương tự, để được tái sanh lên các cõi Trời cần phải tu tập đủ Mười điều lành (Thập thiện đạo), bao gồm:
1. Không sát sanh, thường làm việc tha thứ và phóng sanh.
2. Không trộm cắp, thường tu hạnh bố thí, giúp đỡ, san sẻ với mọi người.
3. Không tà dâm, luôn giữ lòng chung thủy một vợ một chồng.
4. Không nói dối, luôn nói lời chân thật.
5. Không nói trau chuốt, thô tục, thường nói những lời có ý nghĩa, có ích lợi.
6. Không nói đâm thọc, gây chia rẽ, thường nói những lời tạo ra sự đoàn kết, thương yêu nhau.
7. Không nói lời độc ác, gây tổn hại, thường nói những lời ôn hòa, nhu thuận.
8. Không tham lam, luôn quán xét rằng mọi thứ của cải vật chất đều chỉ là giả tạm, không thường tồn.
9. Không sân nhuế, thường tu tập hạnh từ bi, nhẫn nhục.
10. Không ngu mê, tà kiến, thường sáng suốt tu tập theo chánh kiến.
Việc thực hiện được như trên là một quá
trình tự thân phấn đấu lâu dài, mới có thể khiến cho sự trì giới hay tu
tập thiện hạnh trở thành hoạt động tự nhiên của thân, ngữ, tâm. Trên
thực tế, nếu không có một sự quyết tâm kiên trì thì quả thực rất khó để
làm được trọn vẹn.
Đó là vì sự tu tập đơn thuần như trên được
gọi là con đường lập hạnh bằng tự lực bản thân. Con đường này tuy hoàn
toàn đúng đắn nhưng trong thực tế là quá khó để thực hiện trong kiếp
người ngắn ngủi! Bởi lẽ, sự huân tập các tập khí xấu ác của mỗi chúng ta
đều đã bắt đầu từ vô thủy đến nay, mà sự tu tập thiện hạnh thì hầu như
quá ít ỏi. (Đây cũng chính là một trong các lý do khiến chúng ta hôm nay
đang hiện hữu trong cõi Ta-bà này.) Mặt khác, việc hình thành được một
tính tốt cần phải hành trì nhiều năm, nhưng sự nhiễm ô một thói xấu chỉ
cần trong vài ngày! Nếu làm một bài toán bù trừ qua lại sẽ thấy rõ: việc
xấu gia tăng theo cấp số nhân, trong khi việc thiện gia tăng theo cấp
số cộng!
Tiện thể, người viết cũng xin nêu ra sự gia tăng của một nghiệp xấu đã tạo như thế nào qua sự xác quyết của giáo điển:
“Nếu bạn giết một con trùng nhỏ bé mà
không tu hành tịnh hóa ngay trong ngày, sức nặng của nghiệp bất thiện đó
sẽ tăng lên gấp đôi ở ngày kế tiếp; ngày thứ ba lại tăng gấp đôi, ngày
thứ 15 sẽ nặng như giết một con người. Đạo sư Pabongka Decheng Nyingpo
còn xác quyết rằng vào ngày thứ 18 thì nghiệp xấu này sẽ tăng lên gấp
131.072 lần. Và như thế, hàng tuần, hàng tháng, hàng năm trôi qua, một
nghiệp bất thiện nhỏ sẽ nhân lên nhiều lần, sớm muộn gì cũng sẽ trở
thành một ngọn núi với kích thước của trái đất này. Và đến lúc chết, nó
trở nên quá đỗi nặng nề...”
Với thực tế như vậy, làm sao chúng ta có
thể trở nên một người hiền thiện hoàn hảo? Tựa như kẻ nghèo khó, dẫu nỗ
lực đến đâu cũng chỉ làm ra được 100 đồng mà việc chi tiêu nuôi sống
hằng ngày đã mất cả 1.000 đồng, biết bao giờ có tiền tích trữ phòng khi
ốm đau, nói chi đến chuyện làm giàu?
Sự bế tắc của vấn đề ở đây chỉ có thể được
giải quyết nhờ biết sử dụng kèm theo một sức mạnh giúp đỡ từ bên ngoài.
Ví như người nghèo khó kia, bỗng nhiên nhận lại được quan hệ với cha mẹ
giàu có từ lâu thất lạc, liền được cha mẹ giúp cho những khoản tiền
lớn, cộng thêm với sự cần kiệm và chịu khó của mình nên chẳng mấy chốc
sẽ trở nên giàu có, thoát khỏi nỗi khổ đói nghèo.
Đức Bồ Tát Quán Thế Âm từ bi vô lượng
chính là cha mẹ giàu có đã từ lâu thất lạc của tất cả chúng ta. Khi
chúng ta đặt niềm tin vững chắc vào Ngài, đó là ta thiết lập lại mối
quan hệ mà chính ta đã từ lâu đánh mất do sự si mê. Ngay khi đó, ta sẽ
nhận được sự giúp đỡ của Ngài với những “khoản tiền lớn” là lực gia trì
thông qua việc trì niệm thần chú Mani. Với sự giúp đỡ to lớn này, kèm
theo với nỗ lực tu tập của tự thân chúng ta, chắc chắn ta sẽ trở nên
giàu có cả về mặt tâm linh cũng như thể chất: khi còn sống sẽ được khang
an, thịnh vượng, hạnh phúc và khi qua đời chắc chắn sẽ được vãng sanh
về thế giới Tây phương Cực lạc của Đức Phật A-mi-đà.
Vì sao được như vậy? Mật điển Ghuyasamaja khẳng định:
“Ai tìm giải thoát trong chốn luân hồi, thì ngay tại đó họ cũng được tăng trưởng thịnh vượng trong cuộc sống đời thường.”
Phương pháp hành trì thật đơn giản như đã
nêu trên. Phần tự lực của hành giả tất nhiên là thiết yếu, nhưng thành
tựu chính là nhờ vào phần tha lực gia trì vô song của vị Bổn tôn Quán Âm
Tứ Thủ. Nhờ đó, hành giả khi đã nỗ lực hành trì thì chắc chắn sẽ dễ
dàng thành tựu, và chính trong quá trình hành trì miên mật đó mà việc
trì giới và tu tập thiện hạnh cũng tự nhiên được thành tựu. Điều này sở
dĩ có được là vì hành giả đã thông qua sự hành trì mà chuyển hóa được
tâm thức, và khi tâm thức đã chuyển hóa thì mọi hành vi cũng như nghiệp
lực đều dần dần được chuyển hóa theo hướng tốt đẹp hơn. Đây là một đặc
điểm ưu việt của Mật thừa, mà ở đây cụ thể là chúng ta đang áp dụng
phương pháp trì niệm thần chú Mani do Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ dạy.
Sau đây là một câu chuyện có thật ở Tây
Tạng, chứng minh rằng khi thực hành Mật thừa cũng là cùng lúc thực hành
cả Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ Tát thừa.
Lạt-ma Rinchen Zangpo là đạo sư danh tiếng
nhất Tây Tạng, được Nhà vua cử làm phiên dịch cho Đạo sư Atisha từ Ấn
Độ sang giáo hóa. Ngài Rinchen Zangpo lớn hơn Ngài Atisha đến 24 tuổi,
đã làu thông kinh điển Phật giáo. Bởi vậy, thật tự hào khi Ngài Zangpo
kể ra hàng loạt kinh luận mình đã đọc và thực hành. Ngài Atisha khâm
phục thốt lên: “Sau khi gặp Ngài, tôi thấy thật ra chẳng cần tôi ở Tây
Tạng làm gì, vì đã có một vị đạo sư như Ngài là quá đủ rồi!”
Tuy vậy, muốn thử nghiệm lại việc thực
hành Pháp như thế nào để quyết định việc trở lại Ấn Độ, Ngài Atisha đặt
câu hỏi: “Theo Ngài thì thế nào, Rinchen Zangpo, ta nên tu các giáo pháp
theo thứ tự có trước có sau hay có thể hành trì cùng lúc?”
Ngài Rinchen Zangpo đáp ngay: “Theo thứ tự có trước, có sau.”
Nghe câu trả lời này, Atisha không đồng ý,
Ngài nói một giọng như ra lệnh: “Tất cả các giáo pháp được hành trì
cùng một lúc. Tất cả các vị thánh đều hiện thân từ một gốc, và chỉ cần
chứng ngộ các vị đó trong một khoảnh khắc duy nhất. Hoàn toàn vô ích nếu
như hiểu biết hàng ngàn pháp sự mà bỏ quên đi phút giây mà tất cả đều
hội tụ và tất cả đều giải thoát.”
Thấy vị tỳ-kheo Tây Tạng có vẻ chưa tin hẳn, Đạo sư Atisha nói tiếp: “Bây giờ tôi đã biết vì sao tôi phải đến Tây Tạng!”
Sau đó, Ngài Rinchen Zangpo được Đạo sư
Atisha chỉ giáo, chuyển sang thực hành thiền quán Bổn tôn. Mười năm sau,
vị tỳ kheo già đó đã chứng đạt tự tại, không lệ thuộc vào bất kỳ phương
tiện nào nữa. Trước khi chết, Ngài Rinchen Zangpo, người đã giác ngộ,
tập hợp đệ tử lại và tâm sự: “Tới lúc ta cao tuổi, ta còn phải học và tu
tập thiền định Thanh văn. Sau khi gặp Atisha, tâm ta mới được giải
thoát trong phép thiền quán đích thực.”
Trong tác phẩm “Mật thừa Tây Tạng”, Đức
Đạt-lai Lạt-ma thứ XIV chỉ ra 31 điểm tinh yếu về sự khác biệt giữa Tiểu
thừa (Thanh văn, Độc giác thừa) và Đại thừa (gồm Thừa Hoàn Thiện là Đại
thừa Hiển giáo, Kim cương thừa là Đại thừa Mật giáo), trong đó Ngài đối
chiếu đặc điểm ưu việt của Mật thừa so với Thừa Hoàn Thiện (Đại thừa
Hiển giáo) qua các điểm như sau:
Hai Đại thừa, tức là Thừa Hoàn Thiện và
Mật thừa, có cùng quả vị và trí huệ; bởi thế sự khác biệt nằm ở phương
tiện, đó là đặc trưng đặc biệt Yoga hóa thần của Tantra. (Điểm khác biệt
thứ 18)
Phương tiện trong Thừa Hoàn Thiện và Mật
thừa là như nhau về nền tảng của thực hành, đó là tâm Bồ-đề và những
công hạnh song hành là Lục Ba-la-mật. Tuy nhiên, Mật thừa có đặc trưng
phụ trội là Yoga Hóa thần. Tánh không là đặc trưng của Yoga Hóa thần vì
Bổn tôn lưu xuất từ Chân tâm của hành giả, chứ không từ đâu khác như
Yoga Hóa thần của ngoại đạo phi Phật giáo. (Điểm khác biệt thứ 20)
Sự khác biệt về tốc độ giữa hai Đại thừa
là do một sự tích tập công đức nhanh hơn trong Mật thừa (nếu người ta có
thể thực hành nó), có từ sự trau giồi Yoga Hóa thần. Đây là phương pháp
thiền quán Bổn tôn trong bối cảnh thanh tịnh triệt để: nơi chốn một đức
Như Lai trụ xứ sau khi giác ngộ viên mãn; thân thể là sự biểu lộ của
Pháp thân trong môi trường chung quanh và những thánh chúng tùy tùng;
những y báo hiển lộ của cấp độ Phật tánh; những đại lực vô dụng công của
một vị Phật giáo hóa chúng sanh. Những trạng thái tương tự với 4 yếu tố
này là thánh tướng của vị Phật được thiền quán trong Mật thừa. (Điểm
khác biệt thứ 21)
Thừa Hoàn Thiện không có thiền quán Bổn
tôn (Yoga Hóa thần) dù cho có sự thiền định trau giồi một hình thức
tương tự của Pháp thân, tức là thiền quán Chân như, tánh Không. (Điểm
khác biệt thứ 26)
Đối với Mật thừa, thì sự khác biệt trong
tốc độ nhanh hơn so với Thừa Hoàn Thiện là đoạn đường từ lúc bắt đầu con
đường “Tư lương đạo” đến “Kiến đạo” nhanh hơn một A-tăng-kỳ kiếp so với
thời gian cần thiết trong Thừa Hoàn Thiện. (Điểm khác biệt thứ 29)
Ngoài ra, Đạo sư Khetsun Sangpo, người được Đức Đạt-lai Lạt-ma đặc cử giảng dạy ở Nhật Bản 10 năm, đã khẳng định:
“Mật thừa giống như một căn nhà ở giữa
cánh đồng rộng mà chúng ta có thể vào từ bất cứ hướng nào: đông, tây,
nam, bắc. Hành giả không bị bắt buộc phải vào một lối nào, vì có đủ các
pháp môn thích hợp cho từng hạng người. Trong các thừa Thanh văn và Bồ
Tát, hành giả phải đi theo một con đường hẹp, còn trong Thần chú thừa
(Mật thừa) thì có nhiều phương tiện dị thường để tích lũy công đức và
trí huệ một cách nhanh chóng, vì vậy hành giả mau đạt giác ngộ. Nhanh và
dễ là đặc điểm của Mật thừa.”
Đức Đạt-lai Lạt-ma dạy rằng, đã là người
là Phật tử thì nên chọn theo Tantra (Mật chú thừa), và nên theo Tantra
Yoga Tối Thượng (Du-già Tối thượng của Mật thừa) nếu có thể được, bởi vì
đó là chọn lựa tốt nhất, bởi vì Vajradhara chỉ dạy Tantra Yoga Tối
thượng.
Nhưng Ngài chỉ dạy điều này với những ai
có thể thực hành. Với những người mà Tantra Yoga Tối Thượng không thích
hợp thì Ngài dạy Tantra Yoga (Du-già Tương tục). Với những người mà
Tantra Yoga không thích hợp thì Ngài dạy Tantra Thực Hiện. Với những
người không thích hợp với Tantra Thực Hiện thì Ngài dạy Tantra Hoạt
Động. Với những người không thích hợp với Tantra Hoạt Động thì Ngài dạy
theo kinh điển, trong đó ngay cả tên gọi Mật thừa cũng không có.
Như vậy, những hành giả Mật thừa sẽ có cơ hội tu hành ở những giai đoạn Du-già khác nhau tùy theo khả năng của mình.
Nếu chư vị nào đang tu hành theo Tịnh độ
tông, có nghĩa là chuyên tâm niệm Phật A-mi-đà thì cũng có trì chú trong
thời công phu của mình như thần chú Thủ lăng nghiêm, chú Đại bi, chú
Vãng sanh, chú Thiên nữ, chú Kiết tường... bao gồm 10 thần chú gọi là
“thập chú”.
Các thiền sư vĩ đại cũng khuyên mọi người
trì chú như Ngài Vĩnh Minh, Hám Sơn ngày xưa. Ngày nay thì có các Ngài
Quảng Khâm, Tuyên Hóa...
Tuy vậy, cách hành trì xen kẽ như thế không “thuần Mật” như Mật thừa Tây Tạng hiện nay.
Một số Phật tử có thể sẽ hỏi rằng, hành
giả Tịnh độ tông khi qua đời sẽ vãng sanh về cõi Phật A-mi-đà, còn hành
giả Mật tông thì sẽ về đâu? Ngay từ đầu sách, người viết đã nêu rõ đại
nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm là khi trì niệm thần chú Mani của Ngài,
lúc lâm chung Ngài sẽ đón rước về Tây phương Cực lạc của Phật A-mi-đà,
cho dù trước kia người đó từng phạm tội ngũ nghịch.
Tuy nhiên, cần nên biết rằng pháp môn trì
niệm thần chú ở đây có thể đi đôi với sự phát nguyện vãng sanh Tây
phương Cực lạc. Đó là quan điểm của Mật gia Song Nguyễn chúng tôi, đã
xác định ngay từ buổi đầu tu học.
Vì sao như vậy? Bởi vì người con nào cũng
muốn theo cha mẹ sinh sống để được thương yêu, che chở. Cũng vậy, chúng
ta hành trì pháp môn trì chú Mani của Mật thừa Tây Tạng là đương nhiên
công nhận người bảo hộ cao quý nhất, hiệu quả nhất của mình là Bồ Tát
Quán Thế Âm. Hiện nay, trụ xứ của Ngài là ở hai cõi tịnh độ: Tây phương
Cực lạc của Đức Phật A-mi-đà, và cõi Hoan Hỷ Cực lạc là cảnh giới Potala
của Ngài. Trong khi sống chúng ta theo chân Ngài, phát nguyện trở về
cảnh giới của Ngài. Dĩ nhiên, sau khi chết ta cũng theo Ngài về cõi Tịnh
độ, vì câu thần chú của Ngài là kim chỉ nam cho chúng ta nhắm hướng.
Với niềm tin kiên cố qua nhiều năm tháng
hành trì, chúng ta sẽ không sợ hãi vào lúc lâm chung, mà ngược lại đó là
lúc cảm nhận niềm vui sắp được giải thoát khỏi thân nghiệp, được về với
quốc độ Cực Lạc của Ngài.
Chúng tôi sẽ dựa vào một số luận điển để giải thích thêm về niềm tin này.
Theo giáo pháp Mật tông, sau khi mạng
chung, thần thức chúng ta sẽ mang thân trung ấm trong một cảnh giới
trung gian giữa đời sống cũ và đời sống mới (cõi trung ấm), vậy thần chú
Mani có tác dụng gì vào lúc đó?
Theo kinh Thủ Lăng Nghiêm (quyển 8) thì
vào lúc chết có hai cách mà tâm thức chúng sinh có thể đi tới: đi thẳng
lên hoặc đi thẳng xuống. Đi thẳng lên cõi Tịnh độ là cách của một hành
giả thượng thặng được giải thoát ngay sau khi chấm dứt hơi thở sau cùng.
Đi thẳng xuống địa ngục là những ai đã phạm tội ngũ nghịch: giết cha,
giết mẹ, giết Thánh tăng, gây chia rẽ Tăng đoàn, phỉ báng Giáo pháp của
Đức Phật. Sự báng bổ Giáo pháp có nghĩa là sau khi bắt đầu con đường tu
tập và tự hứa giữ giới luật, giới nguyện, sau khi đã đặt niềm tin và sự
sùng mộ nơi Pháp, đã hoàn toàn tin tưởng vào Đức Phật và Phật pháp, rồi
lại hoàn toàn thay đổi thái độ, phát triển cái thấy sai lệch (tà kiến)
và cho rằng các giáo lý đều không chân thật, và không có nhân quả, không
có gì là ác hạnh.
Đối với hành giả giác ngộ giải thoát không
có thân trung ấm (bardo). Họ đạt giải thoát vào Pháp thân khi trút hơi
thở cuối cùng. Nếu điều đó không xảy ra với chúng ta, những hành giả
bình thường, thì vào lúc đó khi mang thân bardo, chúng ta bắt đầu tri
giác các hiện tượng. Năm màu ánh sáng sẽ xuất hiện và từ đó các cõi tịnh
độ của các Bổn tôn sẽ phô diễn. Nếu chúng ta có thói quen thực hành
thiền quán Bổn tôn, thì nhờ niềm tin của mình, khi ta nhìn thấy Ngài
trong bardo, ta sẽ cảm nhận được sự cuốn hút về phía Ngài và được giải
thoát trong giác tánh Báo thân.
Khi đang mang thân bardo, một câu thần chú
Mani lúc đó có hiệu quả mãnh liệt, vì nó báo hiệu cho ta biết đâu là
Bổn tôn của mình. Đây là lý do cơ bản để chúng ta tự nhắc nhở mình hành
trì pháp môn này suốt cuộc đời để sử dụng trong giây phút hệ trọng đó.
Một số Phật tử hoài nghi rằng lâu nay họ
quen tụng kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện để cầu siêu cha mẹ, ông bà, họ
hàng thân thích, như vậy áp dụng trì niệm thần chú Mani cho việc hộ
niệm, cầu siêu có được kết quả chăng? Để giải thích vướng mắc này, người
viết xin trích dẫn lời dạy xác quyết mới đây nhất vào năm 1986 ở Mỹ
Quốc của Hòa thượng Tuyên Hóa, cao tăng đắc đạo người Trung Quốc, khi
thuyết giảng kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện có nói: “Bồ Tát Địa Tạng
khuyến khích mọi người niệm thần chú Lục tự đại minh. Nếu quý vị nào trì
niệm thì khi cầu xin bất cứ điều gì cũng sẽ được toại nguyện.”
Một số khác lại suy diễn, khi hộ niệm
người hấp hối lúc lâm chung, người ta thường quen mời chư tăng ni tụng
kinh A-di-đà, hoặc đọc thần chú Vãng sanh của Ngài. Như vậy, thần chú
Mani của Bồ Tát Quán Âm áp dụng lúc đó có linh nghiệm không?
Tiện đây, người viết xin xác quyết lại một
lần nữa: Bồ Tát Quán Âm đã tuyên xưng Ngài là hiện thân của tất cả chư
Phật, còn thần chú Mani của Ngài có công năng đóng cửa sáu nẻo luân hồi,
thì sự hộ niệm bằng thần chú Mani có tác dụng như khi đọc thần chú Vãng
sanh hoặc đọc tụng kinh A-di-đà. Dĩ nhiên, điều này dễ dàng hơn cho mọi
người vì thần chú Mani chỉ có sáu âm tiết, ai cũng có thể đọc tụng hoặc
trì niệm được.
Mật gia Song
Nguyễn là nơi tịnh cư tu tập của người viết, đã từ lâu chọn pháp môn trì
chú Mani làm cốt lõi tu tập, song hành với phát nguyện vãng sanh Tây
phương Cực lạc. Những hành giả của Mật gia Song Nguyễn tuy ở những trình
độ tâm linh khác nhau nhưng đều dùng thần chú Mani làm nền tảng tiến
tu. Ở đây, khi tọa thiền đều thực hành theo Nghi quỹ Mật giáo, áp dụng
Ba phương tiện tối thượng, trong đó phần chính là trì niệm thần chú
Mani.
Cần nhấn mạnh rằng từ “trì niệm” có nghĩa
là đọc thầm trong tâm trí, không phát ra âm thanh như khi “trì tụng”. Ở
thiền phòng luôn tôn trí linh ảnh, hoặc tôn tượng Đức Quán Âm Tứ Thủ
trước mặt hành giả để dễ thiền quán Bổn tôn bên ngoài. Bên cạnh đó,
ngoài những phẩm vật cúng dường cố định, còn có trang trí đồ hình
Mạn-đà-la, đồ hình các câu thần chú Mật tông.
Tư thế tọa thiền tuy không bắt buộc ngồi
kiết già, nhưng đây là một mục tiêu đầu tiên cần phải đạt được trước khi
muốn tiến nhanh trên đạo lộ giải thoát. Việc tọa thiền không ấn định số
lần trong ngày và thời gian mỗi lần, chỉ tùy theo khả năng và tâm trạng
của mỗi hành giả.
Hành giả có thể ngồi 5 phút một thời
thiền, hoặc nhiều cho đến bao nhiêu tùy ý. Hành giả ngồi thiền bao nhiêu
thời trong ngày cũng được, nhưng ít nhất là mỗi ngày một thời. Tuy
nhiên, hành giả Mật gia Song Nguyễn không được bỏ tọa thiền quá 3 ngày
liên tục.
Theo truyền thống, mỗi ba tháng một lần
vào ngày mồng một âm lịch có chương trình Pháp hội mang tên là “Đêm
trắng Mật gia”. Đêm đó, mỗi hành giả tham gia thực hành tâm linh từ 23
giờ cho đến 5 giờ sáng hôm sau. Chương trình gồm những hoạt động Phật
pháp khác nhau. Tiêu biểu dưới đây là chương trình Pháp hội “Đêm trắng
Mật gia” được tổ chức vào mồng một tháng Giêng năm Kỷ sửu (2009):
I. Tọa thiền từ 23 giờ đến 24 giờ
II. Thiền hành từ 24g10 đến 24g30
III. Đọc tụng giới nguyện Mật giáo từ 1h30 đến 2g00
IV. Thiền hành từ 2g00 đến 2g20
V. Pháp thoại từ 2g30 đến 3g30
VI. Thiền hành từ 3g40 đến 4.00
VII. Giảng pháp từ 4g00 đến 5g00
Ở đây cần có vài giải thích.
Thiền hành tức là thiền trong tư thế đang
đi. Phương pháp thiền hành ở Mật gia là khi đi trì niệm thần chú Mani.
Chân trái bước trước niệm Om mani, chân phải bước sau niệm Padme hum.
Pháp thoại là lời tự bạch của mỗi hành giả
về kinh nghiệm tu tập của mình, hoặc có khi là ý kiến của mỗi hành giả
về một chủ đề chung, chẳng hạn như “Vai trò của niềm tin trong đạo
Phật”.
Giảng pháp là việc của Giáo thọ thiện tri
thức, mỗi chương trình Pháp hội sẽ có mỗi bài thuyết pháp khác nhau. Sau
đó là thảo luận, giải đáp thắc mắc về Phật pháp.
Đặc biệt cần nhấn mạnh là việc đọc tụng
giới luật Biệt giải thoát, giới nguyện Mật giáo và giới nguyện Bồ-đề tâm
của hành giả Mật tông.
Trong Mật gia Song Nguyễn, có hành giả
phát nguyện giữ đầy đủ 98 giới (10 Biệt giới giải thoát, 24 giới nguyện
Mật giáo, 64 giới nguyện Bồ-đề tâm ), có hành giả thọ trì 5 giới hoặc 10
giới Biệt giải thoát... Tuy nhiên, ít nhất hành giả cũng phải thệ
nguyện giữ được 5 giới Biệt giải thoát. Mỗi tháng 2 lần đọc tụng giới
nguyện vào ngày rằm và mồng một âm lịch. Có như vậy, thần lực của thần
chú mới được gia tăng theo thời gian.
Vai trò tối quan trọng của giới luật được
Đức Phật nhấn mạnh trong kinh Đại Bát Niết-bàn, được thuyết giảng ngay
trước khi ngài nhập diệt:
“Này A-nan! Giới luật [Phật đã chế định
sẽ] là bậc thầy lớn nhất của các ông, y theo đó mà tu hành có thể đạt
được định và tuệ rất thâm sâu, thoát khỏi thế tục.”
Thiển nghĩ, cho dù không am hiểu giáo lý
Mật tông của Phật giáo, nhưng hình ảnh của Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ XIV
đang mang ánh sáng Mật tông đến với hàng triệu người, được hoan nghênh
nhiệt liệt trên thế giới hiện nay, qua đó chúng ta cũng đủ cơ sở xác
quyết rằng việc thực hành giáo pháp đem lại lợi lạc cho nhiều người, mà
trước hết là bản thân ta.
Lạt-ma Thubten Zopa, người mà chúng ta
biết đã khuyến tấn đệ tử của mình là đạo hữu Iran Green thực hiện công
trình điêu khắc Ngọc Phật “Polar Pride” (Niềm kiêu hãnh của Bắc Cực),
rồi sau đó triển lãm tại Việt Nam, vào giữa tháng 3 cho đến giữa tháng 4
năm 2009, khẳng định:
“Mọi vấn đề rắc rối xảy ra đều do không thực hành Pháp; mọi sự trở nên hanh thông là nhờ thực hành Pháp.”
Bản thân Ngài là một minh chứng sống động
hiện nay về thực hành pháp môn trì chú Mani, đã làm lợi lạc cho vô số
chúng sanh qua những kỳ nhập thất trì tụng thần chú Mani được tổ chức ở
đất nước Nepal, cả ở phương Tây dưới sự chủ trì của chi nhánh Tổ chức
Bảo vệ Truyền thống Đại thừa (FPMT).
Thêm một Đạo sư vĩ đại với công hạnh siêu
phàm khác là Pháp vương Gyalwang Drukpa thứ XII, đứng đầu dòng phái
Drukpa có chiều dài truyền thừa qua 800 năm, đã phát động phong trào
“Sống để yêu thương” trên toàn thế giới. Ngài còn chủ trương giáo hóa
nhiều nước Á Châu, trong đó có Việt Nam bằng chuyến hoằng hóa giáo pháp
Mật tông, ban lễ Quán đảnh cho Phật tử ở nước ta liên tiếp 2 lần (2007
và 2008). Ngài đã chủ trì buổi lễ cầu nguyện cho thế giới hòa bình bằng
trì niệm tập thể thần chú Mani 100 triệu biến như đã nêu ở đầu sách.
Thực sung sướng biết bao khi chúng ta được
biết, và những ai là hành giả Mật tông đều công nhận, Đức Đạt-lai
Lạt-ma thứ XIV, Pháp vương Gyalwang thứ XII, là những hóa thân của Bồ
Tát Quán Thế Âm.
Để kết luận, người viết xin được trích dẫn
hai điều tâm huyết trong tác phẩm “37 Pháp hành Bồ Tát đạo” của Đạo sư
Thogme Zangpo khuyên chúng ta nên thực hiện:
– Đã được thân người quý hiếm với đầy đủ
tự do và thuận lợi, vậy hãy chuyên cần lắng nghe, suy gẫm và thực hành
giáo pháp bất kể ngày đêm, để giải thoát cho mình và chúng sanh khỏi
biển khổ luân hồi. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo. (Pháp hành thứ nhất)
– Thân bằng quyến thuộc lâu năm rồi cũng
sẽ chia tay. Tài sản tạo dựng bằng mồ hôi và nước mắt rồi cũng phải bỏ
lại. Thần thức là khách trọ trong căn nhà thân xác rồi cũng phải ra đi.
Đừng bám víu vào kiếp sống này. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo. (Pháp hành
thứ tư)
Giờ đây, mỗi người chúng ta hãy tự quyết
định vận mệnh tâm linh của chính mình! Cho dù ở phương diện nào đi nữa,
chúng ta cũng phải hiểu rằng chìa khóa thành công trong mọi nỗ lực là sự
tinh tấn, có nghĩa là quyết tâm và chí khí. Nếu bạn quyết tâm được giàu
có, bắt đầu với chỉ số tiền nhỏ, cuối cùng bạn cũng có thể là triệu
phú. Nếu bạn quyết tâm học, rồi bạn sẽ trở thành uyên bác. Nếu bạn quyết
định thiền tập, rồi bạn sẽ tìm ra phương thức giải thoát khỏi ràng buộc
thế sự, để tập trung cho thực hành Pháp. Tùy bạn chọn lựa mục đích thế
gian hay xuất thế gian.
Qua thực hành Pháp, giống như một nhà vô
địch khuất phục những đối thủ truyền kiếp của mình, bạn sẽ đánh bại một
lần cho tất cả mai sau, sự chấp ngã đã ăn sâu tận gốc rễ tâm thức của
mình trong vô số tiền kiếp. Đó là lời khuyên chân thành và sáng suốt của
Đạo sư Dilgo Khyentse.
Và người viết xin nêu ra một yếu tính giác
ngộ được chỉ rõ trong kinh sách: “Không ai sở hữu được Phật pháp, ngoại
trừ những người kiên trì thực hành Pháp.”
Cuối cùng là quy định cần thiết bảo đảm
thành công trong thực hành Pháp mà Mật gia Song Nguyễn tuân thủ, gồm 4
điều sau đây: (1) niềm tin kiên định, (2) không mảy may nghi ngờ pháp
môn mình đang hành trì dù bị tác động tiêu cực từ thế sự; (3) thực hành
đều đặn và (4) giữ kín việc tu tập.
Viết xong tại Mật gia Song Nguyễn ngày 21
tháng 3 năm 2009, nhân dịp Đại lễ Bồ Tát Quán Thế Âm 19 tháng 2 năm Kỷ
Sửu và sự kiện Tượng Phật Ngọc “Polar Pride” được triển lãm tại Việt
Nam.
PHỤ LỤC
I. BÀI CẦU NGUYỆN BẢY DÒNG
“Ở biên giới tây bắc xứ Oddiyana,
Trên nhụy của một bông sen nở,
Đấng kỳ diệu đạt thành tựu cao,
Lừng danh tên Ngài là Liên Hoa Sanh.
Chung quanh là đoàn tùy tùng thánh nữ,
Noi gương Ngài con nguyện làm theo,
Xin Ngài đến ban phước cho con.”
II. BÀI NGUYỆN BẢY NHÁNH CHI TIẾT
Bằng thân khẩu ý, con đảnh lễ tất cả các đấng trong quá khứ, hiện tại, vị lai trên con đường giác ngộ tối thượng.
Hỡi những sư tử vương của nhân loại, cho
dù các ngài có đông đảo tới đâu trong tất cả các cõi vũ trụ này, con xin
đảnh lễ mỗi một và tất cả các ngài.
Nhờ nguyện lực của đức Phổ Hiền, tất cả
các Đấng Chiến Thắng xuất hiện trong phạm vi tri giác của con. Con đảnh
lễ các ngài bằng thân thể con nhiều như vô số vi trần trong các cõi
Phật.
Trên mỗi vi trần này lại có chư Phật nhiều
như vô số vi trần trong vũ trụ, mỗi vị an tọa giữa một tập hội rộng lớn
gồm những Bồ Tát, trong cách này khi nhận ra rằng vạn pháp giai không,
con khao khát thế giới tràn đầy chư Phật như thế.
Con xin tán thán những phẩm tính siêu việt
của mỗi Đấng Chiến Thắng bằng một đại dương những bài ca tán tụng tuyệt
vời, nhưng giống như một dại dương bao la không đáy, con chưa từng khô
cạn nguồn diễn bày những đức hạnh của các Ngài.
Những bông hoa tươi thắm nhất, những chuỗi
tràng quý báu nhất, những tán lọng vương giả tuyệt hảo, những ngọn đèn
rực rỡ, dầu lễ và trầm hương quý giá. Con xin cúng dường lên các Đấng
Chiến Thắng.
Những lễ phục trang trọng nhất và dầu thơm
hảo hạng, một ngọn núi thực phẩm quý giá ngang bằng núi Tu-di, tất cả
được sắp xếp theo một cách thế đặc biệt và trang nhã nhất, con tôn kính
cúng dường lên các Đấng Chiến Thắng.
Bằng niềm tin tuyệt đối vào các công hạnh
của đức Phổ Hiền, con xin cúng dường bất kỳ những vật hiện hữu vô tận và
không gì sánh được lên các Đấng Chiến Thắng. Con tôn kính cúng dường
những phẩm vật này lên từng Đấng Chiến Thắng.
Dưới ảnh hưởng của tham, sân và si con đã
vi phạm những nghiệp bất thiện về thân, khẩu, ý và giờ đây con xin sám
hối mỗi một và tất cả những tội này mà con từng mắc phải.
Con thành tâm hoan hỷ trước những đức hạnh
của tất cả các Đấng Chiến Thắng khắp mười phương, những trưởng tử của
chư Phật, các vị Độc giác Phật, những bậc A-la-hán và kể cả những ai
trong giai đoạn tu học đã làm được bất kỳ những thiện hạnh nào.
Đối với những bậc là ánh sáng của thế
gian, những bậc dần dần đạt đến giác ngộ mà không bám chấp vào Phật quả,
con khẩn cầu những vị bảo hộ này chuyển Pháp luân vô song.
Đối với những bậc đã đến lúc thị hiện nhập
Niết-bàn, con chấp tay khẩn khầu vì lợi ích và hạnh phúc của tất cả
chúng sanh, xin các ngài trụ thế nhiều kiếp như những vi trần trong các
cõi Phật.
Khi kính lễ, cúng dường, sám hối nghiệp
chướng, tùy hỷ công đức của chúng sanh, thỉnh cầu chư Phật chuyển Pháp
luân, đừng thị hiện nhập Niết bàn. Bất kỳ những thiện hạnh nhỏ bé nào có
được từ những thực hành này, con xin hồi hướng tất cả cho sự giác ngộ
tối thượng.
III. BÀI NGUYỆN CỦA ĐẠO SƯ TANGTONG GYALBO
Quy y Phật, Pháp, Tăng.
Cho đến khi con thành Chánh giác.
Nguyện các công đức con tạo được.
Như bố thí, trì giới vân vân...
Khiến con thành Phật để độ sinh.
Chúng sanh, chúng con đầy hư không.
Đảnh đầu đều có hoa sen trắng.
Và vầng trăng hiện Mật từ HRIH.
Đấng Chí tôn Thánh giả Quán Thế Âm.
Khiết bạch quang minh rực năm màu.
Mỉm cười bi mẫn nhìn sanh chúng.
Ngài có bốn tay thật nhiệm mầu.
Hai tay trong bốn trên chắp lại.
Hai tay phía dưới của Ngài cầm.
Đóa hoa sen trắng chuỗi pha lê.
Lụa châu trang sức nghiêm Thánh thể.
Choàng ngực da nai, đội bảo quan.
Trên mão có Phật A-di-đà.
Đang ngồi trong thế già phu tọa.
Vầng nguyệt sau lưng thanh tịnh soi.
Ngài là chân tính là diệu thể.
Tất cả nương về để quy y.
Nay con đảnh lễ Quán Thế Âm.
Bậc Thánh hoàn toàn không khuyết vọng.
Thân báo thanh tịnh suốt một màu.
Đỉnh đầu nghiêm sức viên mãn Phật.
Bi mẫn từ tâm nhìn chúng sanh.
Rốt ráo như thế nhất tâm cầu.
Bậc Thánh thân báu chiếu quang huy.
Tận trừ vọng tưởng và nghiệp chướng.
Ngoại cảnh biến thành Cực lạc bang.
Chúng sanh thân khẩu ý ba nghiệp.
Đều thành thân khẩu ý Quán Âm.
Thanh, sắc, pháp, trần thảy thành không.
Tất cả chỉ là vô phân biệt.
Sắc tướng của con và mọi người.
Hiện là thánh thể của Quán Âm.
Tất cả âm thanh đều biến thành.
Âm điệu của chú Lục tự minh.
Tư tưởng của con và mọi người.
Hiện là trung tâm của đại trí.
Xin nguyện từ nơi công đức này.
Con được chóng thành Quán Thế Âm.
Độ khắp chúng sanh không phân biệt.
Thẳng vào cảnh giới của chân như.
IV. ĐẠI NGUYỆN CỦA BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM
Đạo sư của ta chính là lòng bi mẫn siêu phàm.
Ta chính là Bổn tôn hiện thân của tất cả các Đấng Chiến Thắng.
Hoạt động giác ngộ của ta trải rộng tới mọi chúng sanh, đối tượng của lòng bi mẫn,
Và với sự xót thương, ta đặc biệt chăm sóc những ai trong cảnh khốn cùng.
Tất cả những ai lễ lạy và tôn kính ta với niềm tin và lòng sùng mộ,
Ta sẽ rước họ tới cõi Cực Lạc, đó là đại nguyện của ta.
Nhờ năng lực lòng bi mẫn của ta, những chúng sinh trong lục đạo
luân hồi có thể tạo mối liên hệ với ta nhờ nghe danh hiệu và lễ lạy ta
với lòng tin Chánh pháp,
Ta sẽ chăm sóc họ với lòng bi mẫn mẹ hiền, bởi ta được gọi là Đấng bi mẫn siêu phàm.
Đặc biệt những ai không có khả năng tự bảo vệ thì trong suốt đêm
ngày, ta trông chừng họ bằng đôi mắt giác tánh nguyên sơ không ngăn
ngại.
Ta thấu hiểu tất cả họ và ban tặng họ điểm nương tựa cuối cùng khi họ khổ đau tuyệt vọng.
Bởi ta được gọi là Avalokita, Đấng có đôi mắt thấu suốt.
Thiền định về sắc tướng của ta, niệm danh hiệu của ta, trì tụng
tâm chú của ta và cử hành nghi lễ chay tịnh của ta – những ai thực hành
nỗ lực như thế, mặc dù họ từng phạm một trong các tội ác ngũ nghịch đưa
đến đoạ lạc vào địa ngục Vô gián,
Ta sẽ dẫn họ tới cõi Cực Lạc, bởi ta được gọi là Lokeshvara, Đấng pháp vương hoàn vũ.
Bởi nguyện lực vô song của ta từ muôn kiếp trước là tiếp dẫn vãng sanh không dụng công,
Tất cả chúng sinh nào nhìn thấy ta, nghe ta nói, tưởng nhớ tới ta, hay tiếp xúc với ta,
Những thánh chúng trong cõi Cực Lạc Phương Tây của đức Phật
A-di-đà và các Đấng Chiến Thắng đã tuyên xưng ta là Đấng giải thoát tự
nhiên khỏi luân hồi sinh tử.
Than ôi!
Trong thời mạt pháp này, mặc dù ta đã dõi mắt đến chúng sinh với lòng bi mẫn bao la,
Nhưng họ dường như vuột khỏi tầm nhìn bi mẫn của ta bởi ác hạnh ngăn che,
Giống như ánh sáng mặt trời không lọt vào hang quay về hướng Bắc,
Họ vuột khỏi tầm tay của ta và cả các Đấng Chiến Thắng khác.
Trong khi lòng bi mẫn của ta không định kiến và thiên vị,
Nhưng bởi tập quán ương ngạnh của họ và niệm tưởng bất chánh,
Chúng sanh cứ mãi lang thang vơ vẩn trong vực sâu tăm tối của tam đồ ác khổ.
Nhận ra rằng do họ tự gây nhân ác, lỗi lầm vô minh, ta tìm thấy họ vẫn xứng đáng với lòng bi mẫn của ta.
Thương thay!
Thời đại mạt pháp khi bệnh tật, vũ khí và nạn đói làm họ khốn khổ,
Thọ mạng ngắn dần vì ma vương bất thần mang họ đi,
Lời nói họ là vọng ngữ vì họ quá lanh lợi trong sự lọc lừa kẻ khác,
Thức ăn của họ bất tịnh vì họ dấn thân vào việc sinh nhai tà mạng,
Quan kiến của họ suy đồi vì lao vào vực thẳm hư vô và vĩnh hằng.
Mặc dù các Đấng Chiến Thắng muốn ngăn cản họ nhưng không thể dừng họ lại được,
Chắc chắn là cửa địa ngục đang chờ họ.
Đã đến lúc ta cho các con vài lời giáo huấn.
Có được thân người với mười tám tự do và cơ hội quả thật là quý hiếm như rùa mù lọt vào bọng cây,
Bây giờ chính là duyên lành trổ quả để các con thực hành Phật pháp.
Nếu buông lung và phóng dật với những tà nghiệp về thân ngữ tâm,
các con sẽ gây ra đau khổ trong tương lai ở kiếp tái sinh nơi ba đường
ác,
Là nơi mà ngay cả cơ hội để nghe danh hiệu của Tam Bảo cũng khó gặp.
Lưỡi hái thần chết vung lên lúc nào không biết, một khi các con đã đọa lạc vào nơi đó.
Vậy thì hãy thực hành cốt tủy Giáo pháp.
Phật Pháp không hiện hữu chỉ vì lợi ích tầm thường là nhằm bảo vệ các con khỏi nỗi sợ hãi và đáp ứng mọi ước muốn của con
Phật pháp không đơn thuần là sự giả tạo như thế, vì vậy hãy nhìn vào tâm thức phi đạo đức của các con.
Giờ đây, khi các con đã sở hữu một nền tảng quý hiếm của thân người,
Các con đã có những hạt giống tốt để tích tập công đức.
Hãy sử dụng ba điều – chánh niệm, tỉnh giác, và chú tâm – là nước và phân bón của đức hạnh.
Hãy quán chiếu vô thường vì nó làm tăng trưởng đức hạnh.
Hãy bắt đầu sự vun trồng đức hạnh với lòng sùng mộ vô biên.
Niềm tin và sự quy ngưỡng Giáo pháp là gốc rễ của đức hạnh.
Lòng vị tha bi mẫn là thân của đức hạnh
Bồ-đề tâm nguyện và Bồ-đề tâm dụng là cốt lõi của đức hạnh
Sáu Ba-la-mật là những nhánh và cành của đức hạnh.
Hoan hỷ trước những đức hạnh của người khác là lá của đức hạnh.
Tứ nhiếp pháp để thu phục nhân tâm của chúng sanh là hoa của đức hạnh.
Và tánh Không với lòng bi mẫn siêu phàm là quả của đức hạnh.
Nếu cây đức hạnh được vun trồng theo cách này,
Nó sẽ đem lại những quả trái nuôi dưỡng các con và những người khác, bây giờ và mãi mãi;
Đó là tính tương thuộc bất biến của tánh Không.
Không có các phương tiện bảo vệ loài cây cao quý của đức hạnh đã tích tập được,
Những đức hạnh này sẽ liên tục bị phí phạm trong bardo.
Này các con!
Phủ nhận luật nhân quả, từ bỏ Giáo pháp, làm hư hỏng giới luật
tâm linh của các con là trận sương giá dữ dội giết chết đức hạnh.
Sự gây hấn, sân hận, thù địch, và ganh tị,
Là trận mưa đá hung bạo làm hư thối quả của đức hạnh.
Bám víu vào thanh danh lợi dưỡng và liên tục bị đời sống gia chủ lôi kéo,
Là những con sâu đục khoét các con tự bên trong, cướp đoạt gốc rễ đức hạnh của các con.
Báng bổ hay bêu xấu các Đạo sư và Bồ Tát bởi sự kiêu căng, tự phụ và ngạo mạn thái quá,
Là một cơn hạn hán dữ dội làm hư hỏng những đức hạnh tích tập của các con.
Hậu quả không tránh khỏi là khổ đau mãi dai dẳng bên con ngày càng nhiều.
Các pháp đối trị với nó là ba loại trí tuệ siêu việt, niềm tin kiên định vào bốn phẩm tính cao cả.
Sự hoan hỷ trước thành công của người khác, xả ly, quán chiếu vô thường và nhàm chán luân hồi sinh tử.
Kềm chế kiêu ngạo, thấu triệt quan kiến trung đạo,
Đây là những lá chắn bảo vệ bền vững.
Hãy giữ giới luật Bát quan trai,
Từ bỏ những phóng dật của thân khẩu ý,
Bất kỳ những gì xuất hiện đều là sắc tướng của Avalokiteshvara, là đấng hợp nhất tất cả các Đấng Chiến Thắng;
Âm thanh nghe được là âm thanh của thần chú tinh túy sáu âm;
Sự vắng mặt bất kỳ cấu trúc nhận thức nền tảng nào là phạm vi hoạt động không tạo tác của Bồ-đề tâm.
Đừng bao giờ lìa xa ba điểm trọng yếu này
Hãy liên tục trì tụng thần chú Lục tự đại minh, chỉ một điều đó thôi là đủ.
Hãy sử dụng tất cả những công đức mà bản thân và tất cả chúng
sanh đã tích lũy được trong ba thời - quá khứ, hiện tại và vị lai, để
giúp tất cả chúng sanh nhanh chóng thành tựu Phật quả.
Hãy hồi hướng công đức cho tận pháp giới quá hiện vị lai của vô số chúng sanh trong lục đạo luân hồi.
Chủ đề hợp nhất này như một dây cương dẫn dắt một con ngựa.
Hãy nói với những ai được gặp những điều sau đây:
Đừng bám chấp vào đời này, nó giống như một giấc mộng dễ chịu.
Tránh xa cám dỗ của cái xấu, điều ác không có sự chấm dứt.
Đừng củng cố bởi tám ngọn gió thế gian, các con chỉ lừa gạt chính mình.
Đừng lập ra kế hoạch, nhớ rằng các con có thể chết vào ngày mai.
Hãy kiên trì tận hiến thân ngữ tâm cho Giáo pháp.
Hãy khuyến khích mọi người thực hành theo trong bất kỳ cách nào các con có thể.
Vào lúc lâm chung, ta sẽ tiếp dẫn các con tới cõi Cực Lạc thuần tịnh.
Om mani padme hum!
V. BA MƯƠI BẢY PHÁP HÀNH BỒ TÁT ĐẠO
(Bản văn của Thánh tăng Ngulchu Thogme Zangpo)
Đã được thân người quý hiếm với đầy đủ tự do và thuận lợi, vậy hãy
chuyên cần lắng nghe, suy gẫm và thực hành giáo pháp bất kể ngày đêm để
giải thoát cho mình và chúng sanh khỏi biển khổ luân hồi. Đó là pháp
hành Bồ Tát đạo.
Vì quyến luyến người khác, tâm ta bị khuấy động như sóng nước. Vì hận
ghét kẻ thù, tâm ta bị thiêu đốt như lửa cháy. Bởi vậy, trong bóng đêm
của vô minh, ta hãy gắng học hỏi những gì nên làm và không nên làm. Đó
là pháp hành Bồ Tát đạo.
Tránh xa những đối tượng xấu, phiền não sẽ dần giảm thiểu. Gìn giữ
không để thất niệm, các thiện hạnh sẽ tự nhiên tăng trưởng. Với tín tâm
thuần khiết, giáo lý sẽ phát khởi. Hãy tu tập nơi thanh vắng. Đó là pháp
hành Bồ Tát đạo.
Thân bằng quyến thuộc lâu năm rồi sẽ phải chia tay. Tài sản tạo dựng
bằng mồ hôi nước mắt rồi cũng phải bỏ lại. Thần thức là khách trọ trong
căn nhà thân xác rồi sẽ phải ra đi. Đừng bám víu vào kiếp sống này. Đó
là pháp hành Bồ Tát đạo.
Liên hệ với ác tri thức sẽ làm tam độc gia
tăng trong khi ta đang học hỏi, suy tư và tu tập. Và họ sẽ làm tâm từ
của chúng ta thối thất. Hãy tránh xa bạn xấu. Đó là pháp hành Bồ Tát
đạo.
Nương cậy nơi thiện tri thức thì lỗi lầm
của ta sẽ dần tiêu trừ và đức hạnh của ta sẽ hoàn thiện. Hãy quý trọng
các vị đạo sư hơn cả thân mạng của mình. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Bị trói buộc trong ngục tù sanh tử luân
hồi, làm sao những vị trời phàm tục có thể hộ trì cho ta? Bởi vậy, hãy
quy y nơi Tam Bảo, nơi nương tựa chân thật. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Đấng Điều ngự Trượng phu từng nói tất cả
những nỗi thống khổ trong ba đường ác đều là hậu quả của ác nghiệp. Bởi
vậy, dù có mất mạng ta cũng quyết không làm việc ác. Đó là pháp hành Bồ
Tát đạo.
Như giọt sương trên đầu ngọn cỏ, lạc thú
trong Ba cõi chỉ trong thoáng chốc rồi tan biến. Hãy phấn đấu đạt đến
giải thoát tối thượng. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Khi những bà mẹ từng yêu thương ta từ vô
thủy đang chịu khổ đau thì hạnh phúc riêng mình có lợi ích gì? Bởi vậy,
muốn cứu độ vô lượng chúng sanh thì phải đào luyện chí hướng vị tha. Đó
là pháp hành Bồ Tát đạo.
Tất cả khổ đau đều do sự ước muốn hạnh
phúc cho bản thân, trong khi chư Phật toàn giác xuất phát từ tâm vị tha.
Bởi vậy, hãy đánh đổi hạnh phúc của ta lấy sự khổ đau của chúng sanh.
Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Mặc dù có kẻ vì lòng tham không đáy thúc
đẩy hắn trộm cướp hoặc bảo kẻ khác tước đạt tài sản của ta, hãy dâng
hiến cho hắn mọi thứ, kể cả công đức mà ta đã góp nhặt trong quá khứ,
hiện tại, vị lai. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Mặc dù có kẻ muốn chặt đầu ta trong khi ta
không hề làm điều gì sai trái. Hãy phát tâm từ bi thọ nhận hết tội ác
của họ. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Mặc dù có kẻ tuyên cáo cho cả ngàn thế
giới những chuyện xấu về ta, hãy lấy tâm từ bi hoàn trả lại bằng cách
tuyên dương những đức tính của họ. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Mặc dù có kẻ phỉ báng chế nhạo ta trước
đám đông, hãy cúi lạy và tôn kính họ, xem họ như một vị đạo sư. Đó là
pháp hành Bồ Tát đạo.
Mặc dù kẻ mà ta chăm sóc thương yêu như
con lại xem ta như kẻ thù. Hãy đối xử với họ như một bà mẹ hiền yêu
thương đứa con bệnh hoạn. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Nếu có kẻ chỉ vì kiêu mạn lại đi gièm pha
ta, hãy đặt họ lên đỉnh đầu với sự tôn kính như ta làm đối với vị Bổn
sư. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Mặc dù sống trong nghèo khó và bị khinh
miệt, mắc phải bệnh tật hiểm nghèo và bị tà ma quấy rối, nhưng ta không
chút sờn lòng. Hãy gánh nhận những khổ đau và tội ác của chúng sinh. Đó
là pháp hành Bồ Tát đạo.
Dù ta có nổi tiếng và được mọi người trọng
vọng, hoặc giàu có như Tỳ-sa-môn thiên vương, hãy nhận rõ sự phù phiếm
của danh lợi, chẳng có gì đáng để tự mãn. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Khi sự sân hận là kẻ thù chính chưa khống
chế được, thì dù có khuất phục được những kẻ thù bên ngoài cũng chỉ làm
cho chúng tăng thêm mà thôi. Bởi vậy, ta phải điều phục tâm mình bằng
hai đoàn quân Từ và Bi. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Dục lạc cũng như nước muối, càng uống càng thêm khát. Hãy buông bỏ ngay những gì gây ra tham ái. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Vạn pháp đều do tâm tạo. Từ khởi thủy, bản
tánh tâm không hề bị chấp trước trong các biên kiến. Hãy nhận thức như
thế và đừng để tâm mình bị lôi cuốn vào vòng nhị nguyên đối đãi. Đó là
pháp hành Bồ Tát đạo.
Khi đối diện với các đối tượng hấp dẫn, dù
thấy chúng đẹp đẽ như cầu vồng giữa mùa hạ, hãy biết rằng chúng không
có tự tánh và hãy xả bỏ luyến ái chấp thủ. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Mọi hình thức khổ đau đều như mộng ảo.
Chấp các huyễn ảnh có thực sẽ làm nhọc tâm ta. Bởi vậy khi gặp nghịch
cảnh, hãy xem chúng như ảo huyễn. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Người tầm cầu giác ngộ có khi phải thí bỏ
cả thân mạng, vậy cần gì phải để ý đến vật chất bên ngoài. Hãy bố thí mà
không cầu mong sự đền đáp. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Nếu không giữ giới, ta không thể gặt hái
được thành quả gì, đừng nói chi đến ước muốn làm lợi lạc cho chúng sanh,
điều này thật đáng buồn cười. Bởi vậy, hãy trì giới mà không có sự mong
cầu của thế gian. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Đối với những vị Bồ Tát muốn vun bồi công
đức thì những kẻ hãm hại họ lại là những bảo vật quý báu. Bởi vậy, hãy
tập nhẫn nhục với tâm vô hận thù. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Ngay cả hàng Thanh văn và Độc giác chỉ
mong cầu tự giác, cũng gắng công tu tập miên mật như đang khẩn trương
dập tắt lửa cháy trên đầu. Bởi vậy, nỗ lực tinh tấn để lợi lạc cho chúng
sanh là căn nguyên của mọi thiện căn. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Nên biết rằng các phiền não đều bị tiêu
trừ bởi thiền chỉ và thiền quán. Hãy luyện tập chú tâm để siêu việt bốn
Vô sắc định. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Có năm ba-la-mật mà thiếu Trí huệ
Ba-la-mật thì không thể dẫn đến đạo quả. Bởi vậy, hãy kết hợp các phương
tiện thiện xảo cùng với trí tuệ để khỏi lạc vào Ba cõi. Đó là pháp hành
Bồ Tát đạo.
Nếu không tự quán xét lỗi lầm tức là ta
chỉ mang danh hành giả mà không có thực hành. Bởi vậy, hãy luôn luôn
quán xét và loại trừ lỗi lầm của mình. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Nếu vì sự thôi thúc của phiền não mà ta
vạch lỗi lầm của một vị Bồ Tát, thì chính ta tự hại mình. Bởi vậy, đừng
phô bày lỗi lầm của những hành giả Đại thừa. Đó là pháp hành Bồ Tát
đạo.
Danh lợi chỉ gây ra sự tranh chấp và làm
cho việc học hỏi, suy tư, tu tập suy thoái. Bởi vậy, hãy từ bỏ và đừng
dính mắc đến thân bằng quyến thuộc, những mối tương quan thí chủ... Đó
là pháp hành Bồ Tát đạo.
Ác khẩu làm xáo động tâm trí kẻ khác và
làm hư hoại Bồ Tát hạnh. Bởi vậy, hãy tránh những lời lẽ khắc nghiệt gây
ra sự bất an cho kẻ khác. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Phiền não khi đã được huân tập thì thật
khó ngăn chặn bằng các pháp đối trị. Hãy trang bị bằng các vệ binh chánh
niệm và tỉnh giác để diệt trừ những phiền não. Đó là pháp hành Bồ Tát
đạo.
Tựu trung, bất luận đang làm gì, ta phải
tự hỏi: “Tâm ta đang ở trạng thái nào?” Hãy luôn giữ chánh niệm và tỉnh
giác để lợi lạc cho chúng sanh. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Giải trừ nỗi thống khổ của vô lượng chúng
sanh, thấu suốt sự bất toàn của Ba cõi. Hãy dùng công đức của những nỗ
lực này để hồi hướng đến giác ngộ. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
VI. THUẬT NGỮ VÀ DANH XƯNG
Akong Tulku Rinpoche: Ngài
sinh vào ngày 25 tháng 12 năm 1939 ở tỉnh Kham, miền Đông Tây Tạng, một
miền giáp ranh với Trung Hoa. Ngài được công nhận là một hiện thân tái
sinh – tulku – của một vị trụ trì trước của tu viện Drolma Lhakhang, đã
được xem là “Akong thứ nhất” - Akong Tulku (1883- 1938). Trụ xứ của ngài
hiện ở tu viện Samye-Ling, Eskdalemuir, Dumfriesshire – Scotland.
A-la-hán: dịch nghĩa là
Sát Tặc tức là diệt hết bọn giặc phiền não, ô nhiễm; cũng có nghĩa là
Ứng Cúng là người đáng được cúng dường; là Bất Sinh hoặc là người đã đạt
Niết-bàn, đoạn diệt sinh tử. A-la-hán là danh từ chỉ một Thánh nhân,
một người đã đạt cấp “vô học” của Thánh đạo, không bị ô nhiễm và phiền
não chi phối.
Atisa: Đạo sư và học giả
vĩ đại người Đông Ấn (982 - 1054), đã đóng góp rất nhiều trong việc
truyền Phật giáo sang Tây Tạng. Ngài chuyên nghiên cứu các phương pháp
phát triển tâm Bồ-đề và là một trong những vị thầy chính ở tu viện nổi
tiếng Siêu Giới (Vikramashila). Ngài được mời qua Tây Tạng năm 1042 và
sống tại đây 12 năm cuối đời mình. Ngài là người sáng lập trường phái
Ca-đường (Kadampa), gây ảnh hưởng rất lớn cho nền Phật giáo Tây Tạng,
nhất là dòng Cách-lỗ (Gelugpa) của Đại sư Tông Khách Ba (Tsong-kha-pa).
Đệ tử quan trọng nhất của Ngài là Chủng-đôn-ba (Dromtonpa, 1003- 1064).
Chagdud Tulku (Đại sư):
sinh năm 1930 tại Kham, một tỉnh miền Đông Tây Tạng. Thân phụ của Ngài
là Sera Kharpo một Đạo sư của dòng phái Gelugpa, thân mẫu của Ngài là Nữ
đạo sư Dawa Drolma, một hóa thân tôn quý của đức Tara trắng. Ngài là
bậc đại sư Tây Tạng nổi tiếng tại Tây phương, được công nhận là tái sanh
lần thứ 14 của Đại Sư Chagdud. Đại sư Chagdud Tulku hoằng pháp khắp các
nước Tây phương, từ châu Âu sang châu Mỹ cho đến khi ngài viên tịch năm
2002. Rinpoche đã có nhiều hóa hiện, cả bình an và phẫn nộ, nhưng tận
thâm sâu là lòng kiên nhẫn gần như vô bờ đối với chúng sinh.
Dudjom Rinpoche (Đạo sư):
Đức Kyabje Dudjom Rinpoche (1904-1987) là một vị thánh và Vidyadhara
(Trì Minh Vương) vĩ đại của Phái Nyingma của Phật Giáo Tây Tạng, và được
cộng đồng Tây Tạng coi là vị đại diện trực tiếp của Đạo sư Liên Hoa
Sanh, vị Phật thứ hai của thời đại chúng ta. Như vậy, theo “Vòng Hoa
Những Viên Ngọc Pha lê: Lời Cầu nguyện những Hóa Thân Thần kỳ của Đức
Kyabje Dudjom Rinpoche” thì trên thực tế, Kyabje Rinpoche là vị thứ mười
tám trong một loạt các Hóa thân bao gồm những Đạo sư Phật Giáo vĩ đại
nhất của Ấn Độ và Tây Tạng. Đức Dudjom Rinpoche đã dâng hiến nhiều đời
sống cho việc thực hiện Phật sự.
Gampopa: 1079–1153 Đức
Gampopa còn có tên là Dagpo Lharje hay Sonam Rinchen, là đệ tử thượng
thủ và là người truyền thừa chính của Jetsun Milarepa. Ngài được ví như
mặt trời, so với Rechung người viết lại tiểu sử của Milarepa, được ví
như mặt trăng. Đức Gampopa là người cha của truyền thống Kagyu, cội gốc
và nền tảng của phái này. Hoạt động của Ngài về đạo pháp bắt đầu trong
một đời trước, khi Ngài là một Bồ Tát có tên là Chandra Prabha Kumara
hay “Ánh Trăng Trẻ Trung”, là một đệ tử của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni.
Đức Phật đã nói trong Kinh Định Vương (Samadhiraja Sutra) rằng vào thời
mạt pháp, hậu thân của Ánh Trăng Trẻ Trung sẽ truyền bá những giáo lý
của kinh này, nó chính là thực nghĩa, là Đại Ấn (Mahamudra). Qua nguyện
vọng Bồ Tát của mình và những ban phước gia bị của Phật Thích-ca, Ánh
Trăng Trẻ Trung đã tái sanh ở Tây Tạng là đức Gampopa và sáng lập ra
dòng Kagyu. Tên Gampopa của Ngài còn ám chỉ Ngài như là sự tái sanh của
vua Srong-Tsan-Gampo, vị vua Phật giáo đầu tiên của Tây Tạng, mất vào
năm 650. Gampopa sanh ở miền trung Tây Tạng, là một y sĩ. Khi gia đình
Ngài bị sụp đổ vì một nạn dịch, Ngài đã hứa với vợ mình trước khi chết
rằng Ngài sẽ xuất gia và hiến đời mình cho Phật pháp. Được thọ giới năm
26 tuổi với pháp danh là Sonam Rinchen, Ngài bắt đầu tu hành trong
truyền thống Kadampa của Atisha. Về sau Ngài gặp đại thiền giả Milarepa,
người nối dòng từ Tilopa qua Naropa, đến Thầy Milarepa là Marpa, Đại
dịch giả và ngài là đệ tử thứ nhất nối pháp của Jetsun Milarepa. Về già
ngài có nhiều đệ tử và xây ngôi chùa ở Gampo Dar làm trung tâm cho dòng
Kagyu. Trong những đệ tử truyền dòng, đặc biệt có Karmapa đệ nhất, Dusum
Khyenpa là đệ tử của Ngài, là người sáng lập dòng Karma Kagyu, tu viện
chính là Tsurphu và nay đã đến đời Karmapa thứ 17. Ngài đã viết các luận
văn về Đại Ấn và những giáo lý Kagyu. Ngoài tác phẩm Vòng Hoa Quý Báu
của Con Đường Tối Thượng, những tác phẩm chính khác là Sự Trang Hoàng
Bằng Ngọc của Giải Thoát và Bốn Pháp của Gampopa. Trong những tác phẩm
của ngài, Gampopa nói rằng những người đời sau có niềm tin mãnh liệt vào
ngài, nghiên cứu những bản văn trên cũng như được những lời dạy trực
tiếp từ ngài. Ngài nói, dầu những đệ tử tương lai không có dịp may gặp
chính bản thân ngài, nhưng nếu có, ngài cũng sẽ không trao cho họ cái gì
hơn những điều được nói trong các bản văn đó.
giác ngộ: danh từ được
dịch nghĩa từ chữ bodhi (bồ-đề) của Phạn ngữ chỉ trạng thái tỉnh thức,
lúc con người trực nhận tính Không (nyata), bản thân nó là Không cũng
như toàn thể vũ trụ cũng là Không. Chỉ với sự trực nhận đó con người mới
thấu hiểu được thể tính mọi hiện tượng. Tính Không hiểu ở đây không
phải sự trống rỗng thông thường mà nói về một thể tính vô biên không thể
dùng suy nghĩ, cảm nhận để đo lường, nằm ngoài cặp đối đãi có-không.
Tính Không này không phải là một đối tượng để một chủ thể tiếp cận đến
vì bản thân chủ thể cũng thuộc về nó. Vì vậy, giác ngộ là một kinh
nghiệm không thể giải bày.
Guendune: Ngài sinh năm
1918 nơi miền Đông Tây Tạng, là một thiền giả lớn và là tu sĩ đã thọ cụ
túc giới. Ngài đã nhập thất một mình, một số lần, hơn ba mươi năm ở Tây
Tạng, rồi ở Ấn Độ. Ngài được Đức Gyalwang Karmapa 16 chọn đi Châu Âu để
hoằng pháp. Từ năm 1975, Ngài hoạt động không quản mệt nhọc cho sự hoằng
truyền Phật pháp, tạo lập những tu viện, những trung tâm nghiên cứu
Phật pháp và những trung tâm nhập thất ba năm theo truyền thống Áo vải
(Kagyupa) của Phật giáo Tây Tạng.
Gyalwang Drukpa XII: Người
đứng đầu, sáng lập dòng truyền thừa Drukpa, Ngài là vị hóa thân đời thứ
12 của dòng phái Gyalwang Drukpa. Ngài đản sinh vào buổi bình minh ngày
mùng mười tháng giêng năm Quý Mão thuộc cung thứ 16 theo lịch Tây Tạng,
tức năm 1963. Ngài được biết đến như là hóa thân của Đức Bồ Tát Quán
Thế Âm với sứ mệnh thiêng liêng truyền dạy Mật Thừa, hướng đạo, dìu dắt
chúng sinh. Pháp danh của Ngài là Jigme Pema Wangchen, ngoài ra Ngài còn
có pháp danh Jigme Mingyur Wangyi Dorje Tinley Kunkhyab Pel Zangpo.
(xem thêm thông tin trên trang web: www.drukpavietnam.org).
Khetsun Sangpo Rinpoche: đạo sư dòng Ninh-mã (Nyingma) đã được đức Đạt-lai Lạt-ma giao trọng trách hoằng pháp tại Nhật Bản.
Liên Hoa Sanh: Đại sư Ấn
Độ, cùng thời vua Tây Tạng Trisong Duesten (755 - 797). Ngài truyền Phật
giáo sang Tây Tạng và sáng lập tông Ninh-mã (Nyingma) một trong bốn
tông phái lớn của Phật giáo Tây Tạng, Ngài được các đệ tử gọi là “Đức
Phật thứ hai”, là bậc “Đạo sư quý báu”. Tiểu sử sáng chói, vi diệu của
Ngài được ghi chép cẩn thận trong các quyển sách như: “Tạng thư đại giải
thoát”, “Giáo lý Dakini”, “Vũ điệu Dakini”...
Lục Ba-la-mật: Sáu công hạnh của một vị Bồ
Tát, gồm Bố thí Ba-la-mật, Trì giới Ba-la-mật, Nhẫn nhục Ba-la-mật,
Tinh tấn Ba-la-mật, Thiền định Ba-la-mật và Trí tuệ Ba-la-mật.
Milarepa: 1052-1135, có
nghĩa là “Mila, người mặc áo vải khổ hạnh”, Ngài là một trong những
thánh nhân nổi tiếng nhất của Tây Tạng. Ngài là đệ tử của Đại dịch giả
Marpa và đã chịu sự thử thách rất khắc nghiệt của vị thầy. Cuối cùng
Ngài được truyền pháp và sáng lập tông phái Kagyu (Áo vải). Ngày nay,
Phật giáo Tây Tạng và toàn thế giới vẫn còn nhắc nhở lại cuộc đời kỳ
diệu và những bài thánh ca vĩ đại của Ngài. Đạo sư Milarepa sinh tại Tây
Tạng, gần biên giới Nepal. Lúc lên bảy, cha mất, gia sản bị chiếm đoạt,
gia đình Ngài bị đối xử tàn tệ. Nhằm trả thù nhà, Thoga-Pa (Milarepa
lúc bấy giờ) đi học huyền thuật, dùng phép hô phong hoán vũ giết hại
nhiều người. Ăn năn về hành động đó, ông tìm gặp một vị Đạo sư của tông
Nyingma là Rong-ton xin học, nhưng vị này khuyên nên gặp Marpa. Ngài trở
thành môn đệ của Đạo sư Marpa lúc 38 tuổi, nhưng suốt sáu năm chỉ được
xem là kẻ hầu, và Marpa thử thách khắc nghiệt làm Milarepa hầu như kiệt
sức và gần muốn tự vận. Với thời gian đó, ác nghiệp của Milarepa đã được
tiêu trừ, Marpa bắt đầu dạy pháp cho ông bằng cách sống viễn li cô
tịch, truyền cho giáo pháp của Naropa và đặc biệt chú trọng phép phát
triển Tu-mô Nội nhiệt. Chỉ với một chiếc áo vải mỏng manh, Milarepa sống
năm này qua năm khác trong cái lạnh của Hi-mã-lạp sơn, chỉ chuyên tâm
thiền định trong các hang động. Sau chín năm độc ẩn, ông bắt đầu thu
nhận môn đệ, trong đó có vị y sĩ Gampopa là người quan trọng nhất.
Milarepa để lại nhiều bài ca bất hủ cho đời sau và những bài ca này được
ghi lại trong một tập dưới tên “100.000 bài hát của Milarepa”.
Đạt-lai Lạt-Ma XIV: Ngài
sinh ngày 07 tháng 6 năm 1935, là lãnh tụ tinh thần của Phật giáo Tây
Tạng nói riêng và toàn thể Phật tử trên thế giới nói chung. Ngài được
công nhận là hóa thân tôn quý của Đức Quán Thế Âm. Ngài đã dành trọn đời
mình để phục vụ chúng sanh, trụ xứ hiện tại của Ngài ở Dharamshala, Ấn
Độ.
ngọc như ý: hay còn có
tên gọi “ngọc ước”, người sở hữu được vật này thời có thể có được mọi
thứ mình ước muốn, ngoại trừ Giác ngộ giải thoát.
Pabongka Dechen Nyingpo (Đạo sư): Ngài còn
có Pháp danh là Jampa Tenzin Trinlay Gyatso (1878 – 1941), là đạo sư
trứ danh của Phật giáo Tây Tạng, dòng Gelugpa. Ngài sinh ở miền Bắc
Lhasa vào năm 1878. Thân phụ ngài là một quan chức nhỏ nhưng gia đình
ngài không giàu lắm. Lúc ngài chào đời, có ánh sáng chiếu khắp phòng,
mặc dù đang đêm tối mịt, và bên ngoài, người ta trông thấy một vị thần
hộ mạng đứng trên mái nhà. Pabongka Rinpoche là một hóa thân của học giả
vĩ đại Jangkya Rolpao Dorje (1717-1786), trong khi trước đấy ngài là
tái sinh của một vị geshe (tiến sĩ Phật học) uyên bác ở tu viện
Sera-mae. Ngài nhập viện vào năm lên bảy, theo học chương trình thông
thường của tu sĩ, lấy bằng geshe và theo học hai năm ở Đại học Mật giáo
Gyutoe. Bổn sư của ngài là Dagpo Lama Rinpoche Jampeal Lhuendrub Gyatso ở
Lhoka, ngài hẳn là một vị Bồ Tát hóa thân, và Pabongka Rinpoche là đệ
tử đầu của ngài. Pabongka Rinpoche sống trong một hang động ở Pasang và
việc hành trì chính yếu của ngài là Bồ-đề tâm; thần hộ mạng của ngài là
Quán Tự Tại (Avalokiteshvara). Ngài thường niệm câu thần chú Om mani
padme hum mỗi đêm năm vạn lần. Pabongka Rinpoche có bốn đại đệ tử là
Kyabje Ling Rinpoche, Kyabje Trijang Rinpoche, Khangsar Rinpoche và
Tathag Ringpoche, một vị nhiếp chính của Tây Tạng. Vị này là thầy giáo
đạo chính của đức Đạt-lai Lạt-ma XIV khi ngài còn thơ ấu và là người đã
thế phát quy y cho ngài.
Phổ Hiền: “Bậc mãi mãi
toàn hảo”. 1. Phật Pháp thân nguyên thuỷ; 2. Đại Bồ tát Phổ Hiền, là
gương tiêu biểu cho sự thành tựu một sự cúng dường triển khai đến vô
hạn.
Ribur Rinpoche (Đại sư): sinh tại miền
đông Tây Tạng vào năm 1923. Lúc lên năm, Ngài được đức Dalai Lama 13
công nhận ra là hóa thân thứ sáu của Lama Kunga Osel. Ngài vào Đại học
tu viện Sera ở Lhasa, Tây Tạng năm 14 tuổi, đỗ tiến sĩ Phật học năm 24
tuổi. Ngài thiền định, giảng dạy cho đến năm 1959. Năm 1980 Ngài được
phép hoạt động tôn giáo và đã giúp xây một tháp mới để thờ Pabongka
Rinpoche tại Sera, vì ngôi tháp đầu tiên đã bị phá hủy. Sau đó Ngài sang
Ấn sống ở tu viện Namgyal tại Dharamsala.
Rinpoche: danh hiệu tôn xưng, dịch nghĩa là Bậc tôn quý.
Tenzin Palmo: Dianne
Perry, (sau này được biết đến qua pháp danh Tây Tạng của cô là Tenzin
Palmo) là vị ni cô người Anh đầu tiên, đã ẩn cư thiền định suốt 12 năm
trong một hang động cao 3.750 mét trên dãy Hy Mã Lạp Sơn, cách ngăn khỏi
thế giới trần tục bởi những rặng núi phủ đầy tuyết trắng quanh năm.
Tenzin Palmo đã sống một mình và tu tập trong động tuyết này. Cô đã chạm
trán với những thú rừng hoang dã, đã vượt qua những cơn lạnh khủng
khiếp, những cái đói giết người, và những trận bão tuyết kinh hồn; cô tự
trồng lấy thực phẩm và ngủ ngồi trong cái hộp gỗ rộng chỉ khoảng 1/3
mét vuông (theo truyền thống Tây Tạng, các vị tu sĩ đều tọa thiền trong
một cái hộp gỗ như vậy). Cô không bao giờ ngủ nằm. Mục đích của Tenzin
Palmo là chứng đạo trong hình tướng một người nữ. Sanh vào năm 1943,
Tenzin Palmo lớn lên ở trung tâm khu East End của thành phố London, Anh
quốc. Cô là con gái một người bán cá. Khi còn bé, Tenzin Palmo đã thích
sống lặng lẽ một mình. Cô đã tìm hiểu nghiên cứu các tôn giáo phương
Đông và khát khao được giác ngộ chân lý. Năm 20 tuổi, theo tiếng gọi tâm
linh, Tenzin Palmo đã bỏ việc làm tại thư viện và đáp tàu đi Ấn Độ. Năm
1964, sau ba tuần lễ diện kiến và học hỏi với một vị đạo sư, Tenzin
Palmo đã trở thành vị ni cô Tây phương đầu tiên xuất gia tại Ấn Độ. Cô
sống trong một tu viện Phật giáo Tây Tạng và cũng là người phụ nữ duy
nhất trong số hàng trăm tăng sĩ. Do đó, cô đã kinh nghiệm sự đối xử cách
biệt đối với hàng nữ tu. Cô đơn và đau khổ, cô đã thề nguyện sẽ chứng
đạo trong hình tướng một người nữ, dù phải trải qua vô lượng kiếp. Với
tư tưởng đó, năm 1970, cô bắt đầu cuộc sống độc cư tại một nơi tĩnh mịch
vắng vẻ; và 3 năm sau, cô tìm đến một động tuyết cao chót vót trên dãy
Hy Mã Lạp Sơn để ẩn cư thiền định. Năm 1988, cô rời khỏi động Tuyết Sơn
với ý định sẽ thành lập một nữ tu viện ở miền Bắc Ấn để giúp cho các phụ
nữ khác đạt tới cảnh giới giác ngộ. Từ lúc bắt đầu sống đời ẩn sĩ chỉ
với 80 Anh kim một năm, Tenzin Palmo đã trở thành một người nổi tiếng
với những cuộc du thuyết toàn cầu; và tổ chức quyên góp xây nữ tu viện
của cô càng lúc càng hoạt động sôi nổi. Tenzin Palmo đã đến với cuộc đời
này, rời bỏ nó, và rồi lại trở về một lần nữa để giúp đỡ mọi người.
(Xem thêm: Trong động Tuyết Sơn)
Thogme Zangpo (Đạo sư)
(1295-1369) - Một đạo sư vĩ đại của truyền thống Nyingma và Sakya; tác
giả của luận giải nổi tiếng “Ba mươi bảy pháp hành Bồ Tát đạo”. Ngài còn
có danh hiệu là Gyalse Rinpoche, nghĩa đen là: Nam tử quý báu của các
Đấng Chiến Thắng.
Thubten Yeshe (Lạt-ma):
ngài ra đời ở Tolung gần Lhasa, Tây Tạng vào năm 1935, sáu tuổi đã vào
tu viện Sera, ở đấy ngài được hấp thụ một nền giáo dục rộng rãi về thế
học và Phật học. Sau năm 1959, ngài hoàn tất việc học ở trại tị nạn
Buxaduar, đông nam Ấn Độ, và đi định cư gần tháp Boudhanath, ngoại biên
Kathmandu, Nepal. Ở đây ngài khởi sự tiếp xúc nhiều người Tây phương.
Năm 1971 ngài cùng Lama Zopa sáng lập Trung tâm Tu viện Đại thừa trên
đỉnh đồi Kopan, tổ chức những khóa giảng hằng năm lôi cuốn học viên ngày
càng đông. Những học viên này về sau đã mở thêm hơn ba mươi trung tâm
tu học. Trong mười năm cuối đời, Lama Yeshe thường lui tới những trung
tâm này để diễn giảng, tổ chức các khóa huấn luyện lãnh đạo, và quan
trọng hơn cả, gây cảm hứng cho mọi người, làm tấm gương thân giáo về
hạnh lợi tha không mỏi mệt. Cuối cùng, vào ngày 3 tháng 3 năm 1984, tại
bệnh viện Cedars Sinai ở Los Angeles, vào sáng sớm đầu năm âm lịch, ngài
viên tịch vì chứng suy tim trầm trọng đã trên 12 năm đe dọa mạng sống
ngài.
Vajrasattva: tiếng Tây
Tạng là Dorje Sempa, là một hiện tướng của chư Phật có mục đích để tịnh
hóa và trừ bỏ khổ đau, bệnh tật và nghiệp xấu đã tạo. Ngài xuất hiện
dưới nhiều hình tướng, an bình hay phẫn nộ, một mình hay với vị phối
ngẫu.
Yeshe Tsogyal (Đức Bà):
Nữ đại đệ tử vĩ đại và là phối ngẫu huyền nhiệm của Đạo sư Liên Hoa
Sanh. Bà đã phụng sự Ngài thật hoàn hảo và giúp Ngài truyền bá giáo lý,
đặc biệt là cất giấu những kho tàng tâm linh để sau này được khám phá vì
sự lợi lạc của chúng sanh trong tương lai.
Nguồn: thuvienhoasen.org