TÌM HIỂU PHÁP THẦN THÔNG TRONG PHẬT GIÁO
Nguyên tác: Supra-Mundane, Psychic Powers
Tác giả: Phorn Ratanasuwan - Dịch giả: Tỳ khưu Thiện Minh
PUBBENIVĀSĀNUSSATIÑĀNĀ
TÚC MẠNG THÔNG HAY NHỚ LẠI TIỀN KIẾP
NHỚ
LẠI TIỀN KIẾP có khả thi hay không? Bằng cách nào Đức
Phật đã thể hiện được khả năng này? Trước khi trả
lời câu hỏi đầy thách thức này, ta nên nghiên cứu những
đoạn văn trong Kinh Phật trích dẫn những lời Đức Phật
dạy về vấn đề này.
“Một
vị tỳ khưu nhập thiền định (samadhi), do đó tuệ giác của
ngài được thanh tịnh và sinh động, gạt bỏ được hết
những ảnh hưởng phiền não, tuệ giác tỳ khưu trở nên
ổn định, linh hoạt, không gì lay chuyển nổi, chỉ một mực
hướng tới nhập tuệ giác do vậy ngài có thể nhớ lại
được những tiền kiếp. Rồi tỳ khưu còn có thể nhớ lại
được rất nhiều kiếp sống trong quá khứ, nghĩa là, một,
hai, ba, bốn, năm kiếp người, rồi mười, hai mươi, ba mươi,
bốn mươi, năm mươi, một trăm kiếp; thậm chí hàng ngàn
hàng vạn kiếp nữa là đàng khác, xuyên suốt cả thành kiếp
(Saṃvatṭa), kiếp (vivaṭta). Tỳ khưu nhận ra nơi các kiếp
đó ngài đã có một danh xưng, sinh ra trong một gia đình nhất
định nào đó, có màu da, tiếng nói và đã sử dụng những
đồ ăn thức uống nhất định nào đó, ngài đã cảm nghiệm
được nỗi đau khổ và niềm hạnh phúc nào đó rồi lại
trải qua một tuổi thọ nhất định; cuối cùng ngài đã “từ
giã” kiếp sống đó và rồi lại tái sanh vào một cõi khác.
Điều này chứng tỏ tỳ khưu có thể nhớ lại rất nhiều
kiếp sống đã qua cùng với những chi tiết cuộc đời liên
quan đến kiếp sống đó.
“Ôi,
tâu Hoàng Thượng, giống như một người rời khỏi nhà mình
và đi đến một nơi khác, rồi lại rời khỏi nơi ở đó
và đến ở một nơi khác nữa. Để rồi từ đó người này
quay trở lại chính ngôi nhà thân thương của mình. Người
đó có dư khả năng nhớ lại những hành vi mình đã làm trong
quá khứ ngay tại căn nhà này, người đó biết được đã
đi đứng ra sao trong ngôi nhà đó, biết được lý do tại
sao và bằng cách nào mình đã rời khỏi căn nhà thân thương
của mình để đi tới nhà của một người xa lạ nào đó,
trong ngôi nhà xa lạ đương sự đã đứng ngồi ở đâu nói
năng những gì và giữ thinh lặng như thế nào…”
Những
lời Đức Phật kể trên được trích từ Phẩm giới uẩn
Sīlakkhandha trong tác phẩm “Trường Bộ Kinh (Long Sayings) (S.
9. 107) Đây là những lời Đức Phật đã nói với nhà vua
Ajatasatu, mô tả lại những kết quả đáng mong đợi của
những ai sống cuộc đời ly tục (vô gia cư) theo hệ thống
Phật giáo, bắt đầu với những ai thuộc giai đoạn mở đầu
n.l.(nghĩa là) những kết quả do Ngũ Giới hay Sīla đem lại.
Vào cuối mỗi giai đoạn như vậy nguời đó khẳng định
được thành tích do những kết quả đó đem lại đã đạt
được trong cuộc đời này, tỷ như trong khi đã kinh nghiệm
qua quãng đời đó, họ đã đạt được những kết quả và
tiến bộ nào, chẳng cần phải tìm kiếm đâu xa trong cuộc
sống tương lai cả. Một điều đáng ghi nhận đó là những
khả năng đó chẳng phải chỉ dành riêng cho Đức Phật, chỉ
mình ngài mới có được khả năng đó, vì một số đồ đệ
khác của ngài cũng đã thực hiện được như vậy, chỉ cần
họ đạt đến được một mức độ nhập thiền nhất định
nào đó, gồm Tứ thiền (4 th Jhana) cùng với một vài khả
năng thuần thục hay là Vasī nhất định nào đó. Chiều sâu
hay cao độ trong bậc Thiền này thể hiện ở mức độ có
đặc tính “lãng quên” toàn bộ môi trường bên ngoài, đặc
biệt là khả năng thần kinh nhĩ không phản ứng lại bất
kỳ tiếng động bên ngoài nào, ngay cả tiếng sét đánh ngang
tai. Đồng thời thân xác cũng chẳng còn phản ứng nào nữa,
thần kinh thân cũng ngừng hoạt động ngay cả khi có bất
kỳ người nào hay sức mạnh bên ngoài nào đó gây huyên náo
hay kích động. Tuy nhiên tuệ giác của họ vẫn sống động,
và tâm họ hoàn toàn tỉnh táo. Chẳng còn một suy tư nào
xảy ra trong suốt thời gian đó.
Đặc
Tính Thiền Phải Có
Điều
này có nghĩa là trong những sát na đó toàn bộ tâm tham dục
hoàn toàn bị diệt trừ. Thời gian thân xác đó ngồi thiền
bất động trong bao lâu không quan trọng, thân xác chẳng còn
cảm thấy tình trạng căng thẳng hay mệt mỏi nào nữa. Muỗi
đốt hay bất kỳ loại côn trùng nào cũng không thể gây phiền
nhiễu họ được nữa. Lúc này Tuệ Giác được khống chế
và thanh tịnh toàn diện, do đó khả năng tạo ra những hình
ảnh tâm linh sống động rõ ràng y hệt như mắt thường nhìn
thấy được. Tốc độ tạo qua đó hình ảnh tâm linh này
được tạo ra chính là phản ứng trực tiếp và ngay tức
khắc với ước muốn hay ý định của ta. Nguồn sáng nội
tâm đó sáng rực lên và được khống chế hoàn toàn. Đây
chính là điều kiện thiền cần thiết để nhớ lại tiền
kiếp.
Một
yếu tố khác nữa cũng đáng lưu ý đó là trước khi một
thiền sinh (aspirant) có thể nhớ lại được tiền kiếp, người
đó phải có khả năng gợi nhớ lại bất kỳ điều gì đã
diễn ra với bản thân đến từng chi tiết như đang diễn
ra trong suốt cả cuộc đời hiện tại vậy, có thể là ngày
hôm trước, tháng trước hay năm đã qua hoặc lâu hơn thế
nữa. Tất cả những điều đó phải xuất hiện được trong
thâm tâm một cách chính xác tùy theo ý muốn không sai lầm.
Không những đến lúc khả năng này có thể đạt đến không
gian và thời gian nhớ lại được những biến cố này là
hiện thực và có thể chấp nhận được. Điều này chứng
tỏ con người hiện đại ngày nay có dư khả năng đạt đến
được thành tích phi thường hay phép lạ (thần thông) y như
những gì đã được đề cập đến trong Kinh Phật.
Tam
Minh
Hiện
nay, theo Kinh Phật chúng ta đã biết được Đức Phật có
khả năng nhớ lại tiền kiếp của chính mình lẫn của người
khác nữa. Một chứng minh rõ ràng nhất đó là ngài đã đạt
được toàn giác, n.l (nghĩa là) vào đêm ngài đạt đến Giác
Ngộ. Chính thời điểm đó, chúng ta nghe nói vào canh nhất
trong đêm Đức Phật đã đạt Tuệ Giác, bởi đó ngài nhớ
lại được những kiếp đã qua. Điều này người ta gọi
là Túc Mạng Thông hay Nhớ Lại Tiền Kiếp (pubbenivāsānussatinñāṇa).
Vào canh hai ngài đạt đến Tuệ Giác qua đó ngài có thể
“nhận rõ” toàn bộ thế gian hay là các cõi gồm nhiều
kiếp sống con người và được gọi là Hóa Sinh (Opapātika)
(nghĩa là sinh ra một cách tự nhiên) điều này được gọi
là Thần thông (Cutūpapātanñāṇa) (có nghĩa là luân hồi,
tái sanh). Vào canh ba ngài đạt đến Lậu tận thông (āsavakkhayanñāṇa)
(tận diệt được toàn bộ những lậu hoặc), nhờ đó ngài
tận diệt vĩnh viễn một lần, toàn bộ những phiền não
còn đang âm ỉ tận đáy sâu trong thâm tâm của ngài.
Có
một tham khảo khác nữa là những đoạn Kinh Tụng, trước
tiên là lời tán dương các ân đức Đức Phật đã thực
hiện, một trong các ân đức đó chính là Minh-Hạnh-Túc (Vijjācaraṇasampanno),
có nghĩa là Đức Phật là đấng toàn thiện cả về Minh (Vijjā)
lẫn Hạnh (Caraṇa). Điều đầu tiên tức là Minh (Vijjā) được
ám chỉ Tam Minh như đã đề cập đến ở trên. Tuy nhiên theo
nghĩa rộng, còn gồm ba Phép Thần thông (Abhinñnñā) khác nữa
nghĩa là những Thần Túc Thông (Iddhividhi) – một số biến
hóa thần bí - Thiên Nhĩ Thông (Dibbasota) và Tha Tâm Thông (Cetopariyanñāṇa)
- nghĩa là đọc được tâm của người khác. Đức Phật cũng
đã đạt đến được toàn bộ ba loại Minh vừa kể trên
như đã được biểu thị trong tính ngữ ‘Vijjāsampanno’
(Minh cụ túc). Hạnh ở đây muốn ám chỉ hành động tu luyện
hay là giới, điều này có nghĩa là Đức Phật không chỉ
toàn thiện nhờ nhiều loại minh đa dạng, nhưng còn ở cả
giới hay hạnh kiểm rất đáng tin cậy và hoàn toàn vị tha
của Ngài.
Như
vậy chẳng còn gì phải nghi ngờ, ngay cả những tham khảo
trong Kinh Phật liên quan đến một thực tế là Đức Phật:
thực sự có thể Nhớ Lại Tiền Kiếp tức là gợi nhớ lại
được rất nhiều những biến cố thuộc nhiều kiếp đã
qua, cả của riêng ngài lẫn của người khác nữa. Thực sự
trong những bài thuyết pháp ngài diễn giảng cho nhà vua Ajātasattu,
ngài chỉ đề cập đến trường hợp các vị tỳ khưu nói
chung. Nếu quả thực một đồ đệ của Đức Phật lại có
khả năng thực hiện được điều này, thì còn nghi ngờ gì
nữa chính Đức Phật lại không thể thực hiện được tốt
hơn thế rất nhiều, hay ít nhất thì cũng tốt hơn những
gì các đồ đệ của ngài thực hịên được.
Tại
Sao Và Bằng Cách Nào
Giờ
đây lại nổi lên một câu hỏi nữa đó là: tại sao nhập
thiền ở mức độ cao nhất như vậy lại khiến cho các thiền
sinh (aspirant) nhớ lại được tiền kiếp và bằng cách nào
ta có thể thực hiện được điều này. Chính vì thế tốt
hơn hết chúng ta nên theo dõi câu chuyện sau đây được kể
lại từ chính kinh nghiệm thực tế của Cô Sriphen Catadasri
trong đoạn văn cô mô tả trong cuốn sách nhỏ của cô mang
tựa đề “ĐẾN THĂM THÁNH ĐỊA” trang 46 (To The Land Of Buddha).
Vào
ngày 18 tháng 11 chúng tôi rời thành phố Korakkapur vào lúc
năm giờ sáng, hướng về Lumbini nằm trong lãnh địa vương
quốc Nepal. Đúng 9.30 sáng chúng tôi đến vùng tiền đồn
Naugarh, tại đây vị trưởng đoàn, là cô Piyawan đã thu hết
hộ chiếu của chúng tôi, rồi đến nộp cho văn phòng nhập
cư để xin phép vào Nê-pan. Mãi đến gần 11giờ trước khi
chúng tôi mới tới được Lumbini là địa điểm đã nhắm
trước. Đường xá quá nhiều bụi bậm và mấp mô là khúc
đường dẫn đến Lumbini đến nỗi quãng đường này là cả
một cực hình thực sự đối với mỗi người chúng tôi.
Người ta cho chúng tôi biết trên đường đi phong cảnh hết
sức ngoạn mục, nếu trời tốt chúng tôi có thể nhìn thấy
cảnh núi Hy-mã-lạp-sơn hùng vĩ. Nhưng có lẽ do bụi bậm
và trời nóng, tầm nhìn quá hạn chế vào ngày hôm đó chúng
tôi chẳng nhìn thấy điều gì thú vị ngoại trừ những cánh
đồng khô cằn, nứt nẻ hai bên đường đi. Tôi cảm thấy
tâm nặng nề và tự nhủ: chúng ta đang trên đường đi tới
những nơi giúp chúng ta được Giác Ngộ, chứ không phải
đến nơi vui chơi giải trí thoải mái. Chính vì thế cảm
giác này đem lại tư tưởng “ly dục”. Cảm nhận này lẽ
đương nhiên phải được mong mỏi chờ đợi như là một
điều đương nhiên. Ngay do chính tư tưởng “ly dục” này
tôi được lôi kéo vào nội tâm và đã trở thành quá hiển
nhiên về những gì đang diễn ra bên ngoài.
Rồi
sau đó hình như tôi được chứng kiến một rặng núi Hi-ma-lạp-sơn
(Himalaya) kéo dài đến vô tận với thật nhiều những cánh
rừng vĩnh cửu nằm dưới nhiều ngọn núi phủ đầy tuyết
trắng, những vùng dốc thấp hơn trải dài như một chiếc
áo choàng bằng lá luôn phủ lên một màu xanh mướt. An sâu
dưới đó là những dòng sông hung hãn, đem đến chất phù
sa bổ dưỡng cho một vùng tiểu lục địa hình hoa sen. Tuy
nhiên sức lạnh êm dịu cũng đã được cảm thấy và chúng
ta nghe thấy những tiếng rì rầm của những con suối cũng
như lạch nhỏ dưới chùm lá vấy bùn với những đóa hoa
thơm ngọt ngào đua nhau khoe màu khoe sắc. Luồng gió lạnh
thoáng thổi qua những đồ trang sức cho cánh rừng nổi bật
lên trên những thảm cỏ xanh ngay phía dưới, tạo ra trên
đám cỏ đó một bản phác thảo muôn màu muôn vẻ hết sức
ấn tượng không bút nào tả xiết. Nằm giữa những cảnh
quan đẹp đẽ và thanh tao hiện ra một cây cổ thụ oai vệ
nổi vượt lên trên tất cả những lùm cây bao quanh đó, với
những cánh hoa màu trắng tinh rải rác khắp vùng giống như
những bông tuyết. Chính phía dưới cái tàn lá lạnh lẽo
của cây cổ thụ oai phong lẫm liệt đó hơi thoáng toát ra
những luồng ánh sáng sáu màu chói chang vừa thoáng xuất hiện,
chiếu sáng cùng một lúc cả một dãy ngân hà gồm toàn những
cánh hoa đang nở trong vùng đó. Rồi sau đó là tiếng tụng
quen thuộc và đều đặn Bài Kinh Phật “Buddhaṃ saraṇaṃ
gacchāmi...” và tôi như nghe thấy tiếng vị hoàng đế vĩ
đại của chúng ta lên tiếng, “hãy đến lấy một ít đất
thánh ngay tại nơi Đức Phật xuất hiện lên cõi đời này
lần đầu tiên và đem về trưng bầy như là biểu tượng
cho ngài tại những Ngôi Chùa Tự Do, Chùa Rừng Thông (Pine
camp), thị trấn Lomsak thuộc tỉnh Petchaboon, Thái Lan.’
Rồi
giây phút tiếp theo sau đó tôi hoàn toàn ý thức được điều
gì đang diễn ra xung quanh tôi. Lúc này chúng tôi hầu như đã
tới sát cổng vào Lumbini. Tôi xuống xe và đi theo những người
khác, trong tình trạng nửa tỉnh nửa mê, cảm thấy bồng
bềnh như đang trôi lơ lửng trên không hơn là đang đi trên
đất. Sau đó ít phút tôi tự hỏi : đâu là nơi hài nhi Siddhattha
đã đặt bước chân vinh quang đầu tiên lên hành tinh trái
đất này.
Như
thể trả lời cho câu hỏi trong tâm, tôi lại bị lôi cuốn
vào trong nội tâm một lần nữa và tôi nhìn thấy một cột
sáng chói chang nổi lên tại một nơi không xa lắm. Luồng
sáng đó lại gặp một luồng sáng khác nữa cũng chói chang
không kém. Điều này diễn ra gần chỗ một cây bồ đề thật
lớn, kế bên một chiếc đầm sen hình như đối diện với
tịnh xá Māyādevī.
Tôi
trao đổi với Acharn Phorn chúng ta phải đến nơi đó. Ông
hỏi tôi tại sao lại không xuất phát từ chỗ cây Bồ Đề
gần kề bên tịnh xá kia. Nhưng tôi không trả lời một tiếng
nào cả rất có thể vì tôi không thể mở miệng được,
rồi sau đó lại rơi vào tình trạng nửa tỉnh nửa mê nữa.
Tôi dẫn cả đoàn chúng tôi tới nơi hai luồng ánh sáng kia
xuất hiện rồi gặp nhau gần bên cây Bồ Đề. Rồi Acharn
Phorn thắp lên những ngọn nến, và những nén hương rồi
cầu khẩn những chư thiên từ trời cao chứng giám cho lòng
thành của chúng tôi trước khi bắt đầu tụng kinh. Sau đó
tôi ngồi xuống và nhập thiền trong một thời gian dài.
Chính
trong thời gian nhập thiền đó đã diễn ra buổi tụng kinh
nhịp nhàng bài kinh Buddhaṃ Saraṇaṃ Gacchāmi tại phía hậu
trường, trong khi đó ở phía tiền sảnh có những âm thanh
vang rền vọng lên “Đây là chỗ ngài Bồ Tát đản sanh”
Vì là một ngôi Thánh Tháp cuối cùng trên đường chúng tôi
đi, báo hiệu một giai đoạn giáo Pháp phát triển sau ngày
Đức Phật đã được Giác Ngộ. Pháp này được dùng làm
luồng sáng đèn hiệu. Cứ theo luồng sáng đó cả cõi trần
gian này sẽ được chúc phúc trong bình an đích thực. Bóng
đen bao trùm thế giới trong một thời gian dài đã bị đẩy
lùi, nhường chỗ cho luồng sáng giáo Pháp chói chang rạng
chiếu. Kiếp sống thuộc toàn bộ những gì mà bản chất
là phát triển, ngay cả núi đồi và vòm trời - tất cả những
thứ đó được gọi là hành tinh này, đều được tươi mát
trở lại khi được tắm trong luồng sáng giáo Pháp đó. Chính
vì thế hãy tụng Kinh Buddhaṃ Saraṇaṃ Gacchāmi và để cho
kinh đó chìm sâu vào tận đáy lòng các bạn. Đó là điều
đang vang vọng lên khuyên nhủ từng người chúng ta.
Sau
khi đã lấy một chút đất thánh ngay tại địa điểm đó,
chúng tôi đến một thiền viện Nê-pan, tại đó Cô Piyawan
đã sửa soạn bữa ăn trưa cho cả đoàn. Sau khi đã dàn xếp
xong, như thường lệ việc phân phát Bố Thí Phā-pā sẽ diễn,
chúng tôi rời khỏi nơi sanh của Đức Phật với suy tư nhẹ
nhàng, rất khác nhau chẳng ai giống ai, tùy thuộc vào xu hướng
và sở thích của mỗi người.”
Những
đoạn văn trên được trích từ cuốn sách nhỏ mang tựa đề
“ĐẾN THĂM THÁNH ĐỊA” mô tả một phần Thị Kiến của
Cô Sripen có được về những gì đã xảy ra dưới một góc
độ khác xung quanh khu rừng vùng Lumbini. Hiện tượng là một
cảnh tượng nguyên bản đã diễn ra vào chính ngày giờ và
địa điểm Hài Nhi Siddhattha đã sinh ra hơn hai ngàn năm trăm
năm qua. Những ai đã đọc tác phẩm kể trên của bà sẽ
biết được bất kỳ điều gì bà đã xem thấy tại những
địa điểm khác có liên quan đến cuộc đời Đức Phật
cũng đều được mô tả như là những cảnh đã thực sự
diễn ra vào thời đó. Chính vì thế, đây là bằng chứng
gián tiếp khẳng định khả năng có thể nhớ lại được
biến cố đã qua, hay nói chính xác hơn, đó chính là Tiền
Kiếp vậy.
Tuy
nhiên, rất có thể vẫn còn tồn tại một nghi ngờ nào đó,
có thể hiểu được đặc biệt về sự thật những gì bà
đã được chứng kiến. Có người sẽ hỏi đâu là bằng
chứng để xác minh những cảnh đó hoàn toàn giống như những
gì đã diễn ra từ hồi xa xưa? Để trả lời câu hỏi này
và để làm rõ mối nghi ngờ còn phải bàn bạc trong nhiều
chương sách dài hơn nữa và tốt hơn hết ta nên gác vấn
đề này sang một bên và chưa nên đi đến một kết luận
chung cuộc nào cả. Chính vì thế rất có thể vào một ngày
nào đó một số người sẽ thay đổi thái độ và tìm ra
được một phương thế thuận lợi hơn để làm điều này.
Đối với một số người khác đã quen biết khả năng của
cô Sripen trong lãnh vực này, sẽ sẵn sàng đi đến chỗ hiểu
cô và tin tưởng là lời kể của cô là thực tiễn và đáng
tin cậy. Thêm vào đó họ sẽ sẵn sàng hiểu ra và được
chúc phúc với một đức tin không có gì phải thắc mắc cả.
Thực vậy, một số đồ đệ của Đức Phật cũng đạt được
khả năng làm gia tăng niềm tin nơi Tam Bảo. Chẳng có điều
gì là quá phóng đại đối với Niềm Tin (saddhā) này cả.
nếu ta gọi đó là niềm tin hay đức tin thì cũng vậy. Có
tuệ giác hay trí thông minh hỗ trợ, một niềm tin nơi Tam
Bảo chắc sẽ trở nên sâu xa và vững vàng không hề lay chuyển.
Niềm tin đó là kho báu vô giá, vượt hơn hẳn các kho báu
vật chất hay bất kỳ loại giàu sang phú quí nào.
Độc
giả nên đọc lại một lần nữa đoạn văn được trích
trong tác phẩm của Cô Sriphen, và quyết định xem cô ta có
bịa đặt những câu chuyện đó để lừa bịp người khác
hay không. Thực chất mà nói, đối với những ai biết về
tác giả, không có gì phải lưỡng lự để hạ cố tin tưởng
bài tường thuật của cô cả. Đối với tôi dứt khoát chẳng
có mối nghi ngờ nào cả. Vì tôi hiểu được từ góc độ
Phật giáo: tại sao điều này lại đúng và thực hiện được
bằng cách nào. Thông qua những bản trắc nghiệm nghiêm túc
trước đây về những vấn đề khác, tôi đã có thể hiểu
được những cảnh về Lumbini được cô mô tả hoàn toàn
giống như những gì đã xảy ra hai mươi lăm thế kỷ qua.
Ngài ra mục tiêu đầu tiên của chúng ta là đi đến Ấn Độ
đã đến lúc phải mang về một ít đất thánh từ bốn ngôi
thánh tháp có liên quan đến những biến cố về cuộc đời
của Đức Phật và đem về trưng bầy tại Ngôi Chùa Tự do,
để nhớ lại nhà vua giải phóng Naresuan vĩ đại của chúng
ta. Những chuyện kể này và còn nhiều chuyện kể khác của
cô Sriphen chính vì thế đã trở thành những sản phẩm không
thể tưởng tượng được dùng để củng cố cả những sự
kiện lịch sử lẫn sự thật về việc nhớ lại tiền kiếp
như là một khả năng thần thông cả Đức Phật và các một
số đệ tử của ngài đã thực hiện được. Chính nhờ hiểu
thấu đáo tuệ quán hợp lý, nên con người ta có thể đạt
đến được niềm tin trung thực và đáng khích lệ nơi nhiều
loại tuệ quán và khả năng Đức Phật. Trung thực mà nói,
có nhiều Phật tử cho dù đã nhận Thọ Đại Giới làm tỳ
khưu và có trí rất sâu rộng, vẫn còn phân vân lưỡng lự
trong việc tin tưởng Đức Phật có được những khả năng
thần thông và vượt lên trên tầm với của nhiều người
phàm phu. Những nhân duyên về điều này có hai lý lẽ: thứ
nhất, họ chẳng biết tí gì hay chẳng có ai thực hiện nổi
điều đó, và hai là họ chẳng hiểu gì, bằng ít nhất về
mặt lý thuyết, bằng cách nào con người ta có thể đạt
được những khả năng đó. Đương nhiên không thể phủ nhận
đã có mối hoài nghi như thế và cách biểu lộ như vậy là
một kết quả tất yếu gây tổn hại đến diện mạo của
Phật giáo. Điều quan trọng hơn chính là có nhiều người
hiểu biết rất ít về những tác hại to lớn họ không chủ
tâm gây ra cho tôn giáo họ đang tin theo. Cũng chính nhờ nắm
được những dữ liệu khẳng định chân lý, khả năng Nhớ
Lại Được Tiền Kiếp, nên tôi dám nói rằng chúng ta đã
được thưởng công xứng đáng về những phó phẩm không
thể mơ tưởng được trong chuyến đi tới Ấn Độ vào dịp
này.
Những
Vấn Nạn Thông Cảm Được
Lúc
này một loạt vấn đề lại nổi lên:
Tại
sao những hoàn cảnh đã diễn ra trên cõi nhân loại này nhiều
ngàn năm về trước vẫn còn thấy xuất hiện nơi cõi thiên
hà?
Liên
quan đến những gì Cô Sriphen đã chứng kiến đang khi mất
liên lạc với thế giới bên ngoài và vấn đề là chứng
kiến thấy những cảnh tượng trong quá khứ đó liệu có
phải do các các chúng sanh thiên cung giúp tạo ra cho cô thấy
được những cảnh tượng đó chăng?
Hay
toàn bộ những cảnh tượng đó vẫn tồn tại nguyên hình
như vậy mãi mãi và chỉ có người nào đạt đến một bậc
thiền nhất định và sâu xa nào đó mới có thể nhìn thấy?
Những
cảnh tượng này có tồn tại giống hệt như vậy nơi các
cõi thiên hà khác mãi mãi như vậy kể từ khi xuất hiện
nơi cõi người, làm sao có thể như vậy được?
Đây
thực sự là những câu hỏi rất có ý nghĩa cần phải được
làm sáng tỏ trước khi ta có thể hiểu được hay chấp nhận
bất kỳ chân lý nào về Nhớ Lại Tiền Kiếp có thể đạt
được như là một chân lý về sự tồn tại các chúng sanh
nơi chiều kích được gọi là Hóa Sinh (Opapātika) hay là các
tiên cõi hiện đã được rất nhiều nhà tư tưởng và các
nhà nghiên cứu Đông cũng như Tây chấp nhận.
Trước
tiên, ta cần phải nhớ lại chân lý Đức Phật đã quảng
diễn cho rằng toàn thể những người trần tục, hoặc ngay
cả những vị Tôn giả ở cấp thấp hơn (chưa đạt đến
Bậc A-la-hán), họ đều phải tồn tại, hay nói đúng hơn
họ vẫn còn sống, ở đâu đó trong ba mươi cõi. [1] Điều
này bất chấp một sự thật là họ đã chết hàng nhiều
thế kỷ, hay thiên đại kiếp, hoặc ngay cả hàng triệu năm
và hàng nhiều đại kiếp qua và điều này cho thấy miễn
là họ chỉ còn một chút Ái dục (Tanha) tồn tại là đủ,
được gọi là tham dục (craving) hay là ước vọng (chanda)
còn sót lại nơi tiềm thức của họ là đủ. Cuộc sống
như chính họ ước ao không thể đi đến chỗ kết thúc được
ngay cả khi hành tinh trái đất này bị hủy diệt hay bị thiêu
rụi toàn bộ cách này hay cách khác. Nhưng thọ mệnh cho dù
dưới dạng con người, thú vật, hoặc cây cối, vẫn còn
tiếp tục tồn tại trong tiềm thức (Vinñnñāṇa), tức là
tâm. Có thể được gọi là cõi tiên, hay là cõi hữu tâm,
hoặc có thể bất kỳ một tên nào khác. Sau một khoảng thời
gian dài, có thể lên tới hàng đại kiếp, khi xuất hiện
một hành tinh có thể chứa đựng được cuộc sống như hành
tinh trái đất chúng ta, cuộc sống có chiều kích tốt đẹp
hay tinh tế đó sẽ lại tái sanh một lần nữa trên hành tinh
đó, cho dù được gọi bằng tên gì đi nữa hay được định
vị ở bất kỳ nơi nào trong vũ trụ. Đây là một chu kỳ
cuộc sống vô tận kéo dài cho đến khi nào như đã nói ở
trên chỉ còn tồn tại một chút ước muốn nhỏ trong chiều
sâu ý thức thăm thẳm.
Đây
chính là căn bản bài thuyết pháp đầu tiên của Đức Phật
tại vườn Nai Isipatana. Tuy nhiên vẫn còn nhiều chi tiết hơn
cần được cứu xét về một kết quả từ đó như sau:
Những
Cõi Song Hành
Sau
thân xác thô thiển cư ngụ trên hành tinh trái đất này tan
rã hết, vẫn còn tồn tại một vật tương đương hay là
phiên bản của thân xác đó dưới dạng tinh tế hơn trong
một chiều kích tốt đẹp hơn hay một kiếp sống khác. Một
cuộc nghiên cứu hiện đại và có hệ thống đã được khá
phổ biến ngày nay. Điều đáng chú ý ở đây chính là sự
kiện cho thấy không thể diễn ra như thế được chỉ vì
bằng sức mạnh hay khả năng nội tại của chính tâm thức.
Sức mạnh này có thể duy trì và nuôi dưỡng phần đối tác
hay là phần song hành với thân xác (kể cả tâm là đương
nhiên) trong một giai đoạn dài thời gian vô tận. Như vậy
một tuổi thọ tối đa chính vì thế mà dài hơn tuổi thọ
tối đa của con người trên trái đất này. Nói theo kiểu
toán học ta có thể nhân với n lần độ.
Nhưng
sự liên tục này không có nghĩa chỉ là đặc quyền của
con người mà thôi, toàn bộ những loại sự sống khác đều
có phần chia sẻ trong đó. Điều này cũng kể cả thú vật,
và cây cối. Đây là điều hơi lạ và khó tin, nhưng lại
có thật không thể tưởng tượng nổi. Đó là với sự hiện
hữu của những hình thái sự sống đó, còn tồn tại cùng
một lúc môi trường tự nhiên như là núi non, rừng rậm sông
ngòi v.v… thích ứng và đáp lại với thiên nhiên hay là mức
độ tâm thức của các cảnh giới hay cõi đó. Chính vì thế
các thức uẩn thuộc mức độ đó đều tham gia tạo ra, thông
qua khả năng nội tại riêng của mỗi loại. Như thể môi
trường “thiên nhiên” như vậy toàn bộ những gì tồn tại
ở trong đó đều được phát sinh ra từ khả năng sáng tạo
nội tại của tâm thức về cái gọi là “người quan sát”
thể lý. Nếu như khái niệm này được chấp nhận. Thì không
có mấy vấn đề liên quan đến việc Nhớ lại các tiền
kiếp nữa.
Điểm
khó khăn nhất, hay nan giải nhất, của vấn đề có lẽ là
bằng cách nào những vật không có sự sống như núi non, rừng
rú, sông suối v.v… có thể trở thành hiện hữu. Luật thiên
nhiên cai quản sự tồn tại của chúng như chúng ta được
biết cho đến hiện nay hình như tỏ ra không thay đổi và
hoàn hảo. – cho dù sự thật là không hề có “thiên nhiên”
hay luật tự nhiên nào khác hơn những gì chúng ta biết được
cho đến ngày hôm nay điều này có nghĩa là, cho đến khi chúng
ta bắt đầu rời xa khỏi thiên nhiên, một sự u sầu tuyệt
vọng và một điều bất hạnh cuối cùng. Có một câu tục
ngữ nói rằng. “Còn có nhiều điều hơn là mắt ta có thể
thấy” Trong trường hợp này có thể trở thành rất hiện
thực. Còn có nhiều điều cao siêu hơn là năm giác quan thô
thiển của chúng ta có thể bắt gặp được do thân xác thô
thiển của chúng ta có thể làm được”
“Hóa
Thạch” Nơi Cõi Hữu Tâm
Để
quay trở lại với chủ đề chính công trình nghiên cứu của
chúng ta- Đó là pháp vũ trụ tuyệt đối, có thể nói một
cách không ngoa chút nào là pháp luôn hiện hữu, ở bất kỳ
nơi không gian và thời gian nào đều vẫn còn y nguyên như
vậy. Một năng lực luôn hiện hữu, trường cửu vô tận
và tinh tế vào bậc nhất. Đây là chân lý căn bản nhất
- là nền tảng, hay là cơ sở cho những gì đã được biết
như vật chất và năng lực vượt qua khỏi năng lực lãnh
hội của năm giác quan thô thiển của chúng ta. Chính là loại
hay mức độ năng lực này đã hơi thở sự sống vào cho vạn
vật – gồm cây cối, muông thú và con người trên hành tinh
này cũng như muôn vàn các chiều kích cuộc sống khác. Nguồn
năng lực này không thể bị phá hủy. Hoàn toàn có thể và
hợp lý ta thấy rằng một biến cố xảy ra hàng ngàn năm
hay ngay cả hàng triệu năm vẫn có thể để lại những tàn
dư nơi cõi hữu tâm - và một người quan sát giỏi vẫn quan
sát được một lần nữa.
Năng
lực như vậy, trong trường hợp này chính là mức độ năng
lực đương nhiên, là mức độ cao nhất hay tiên tiến nhất
về thiền định, hay nhập thiền được gọi là Jhana hay là
Thiền Chứng (samāpatti), có thể dùng bất kỳ từ nào bằng
tiếng Anh. Chỉ có nhập thiền ở mức độ hay cường độ
này ta mới “nhìn thấy” những gì còn lại của những sự
kiện tiền sử được bảo tồn lại trên “đá” nơi cõi
hữu tâm. Giống như một nhà khảo cổ học hay là khoáng sản
học có thể “đọc” được những biến cố lịch sử thông
qua những “hóa thạch” không tiếp đất đó. Chính vì thế,
Đức Phật hay các vị tôn giả có kinh nghiệm tham thiền hay
nhập thiền chứng (sāmāpatti). Có thể nhớ lại hay đọc
được những “hóa thạch” của chính họ lẫn của người
khác, nhìn thấy những sự kiện đó một cách rõ ràng và
sống động như thể chúng ta nhìn thấy những vật thực sự
và sống động trong cuộc sống hàng ngày của ta.
Để
nghiên cứu sâu hơn vào từng chi tiết, chúng ta có thể nói
toàn bộ những vật thể, có sự sống hay không cho dù hình
dạng, hình thù, màu sắc, âm thanh, khí, vị và cảnh xúc được
có như thế nào đi chăng nữa, và có thể bền vững đến
đâu chăng nữa, thì các nhà quan sát tiềm lực (có khả năng)
luôn luôn vẫn có thể “quan sát” được. Chúng ta có thể
tưởng tượng như chúng được ghi lại bằng một máy ghi
hình, hay một máy ghi âm, hay bằng bất kỳ một dụng cụ
khoa học nào khác như máy ghi hình truyền hình. Với độ nhạy
cao và bền lâu. Hiểu theo nghĩa này các sự kiện đó không
bao giờ bị “mất đi” nhưng chỉ biến đổi sang một độ
nhậy năng lượng hay một độ tần số cao nào đó mà thôi.
Điều
này là có thực, và trong thực tế, cuộc sống của con người
và con vật trên đời này sau thời kỳ thân xác thô thiển
này tan rã hết. Điều đáng lưu ý là có điều rất thực
đối với những con vật tuyệt chủng như khủng long đã tồn
tại và vẫn còn đó, không phải là những hóa thạch chế,
nhưng là những thú vật sống động nhưng bằng xương bằng
thịt như chúng đã thường tồn tại và di chuyển trên khắp
bề mặt trái đất này, trước khi di chuyển đến sống động
và khỏe mạnh vào cõi hữu tâm. Chúng sống động hoàn toàn
giống như cách con người chúng ta sống động, và hoạt bát,
có thể hoạt động thông qua giác quan của chúng. Nói tóm
lại, nếu những con khủng long đó vẫn còn sống và khỏe
mạnh, thì tại sao con người chúng ta (theo nghĩa rộng) lại
không sống động như chúng (cho dù chúng ta không khỏe bằng,
như trong trường hợp những con ở trong cõi (cảnh khổ).
Những
Sắc Thái Thanh Tịnh
Như
chúng ta đã nói ở trên, điểm khó nhất để hiểu làm sao
và bằng cách nào các vật không có sự sống như núi non,
sông ngòi và nhà cửa, hoa quả cây cối lại có thể tồn
tại được. Ở đây chúng ta nên lưu ý rằng, lúc người
ta “chết” trên trần gian này, được “tái sinh” vào cõi
vô hình, hay cõi thần tiên. Nhìn chung, chúng ta không ra đi
một cách trần trụi. Chúng ta xuất hiện nơi cõi thần tiên
đó ít nhất là với bản sao chép y hệt với quần áo chúng
ta đang mặc vào sát na ra đi đó. Chẳng ai trong chúng ta ra
đi với tâm lành mạnh lại nghĩ rằng chúng ta ra đi trần
trụi cả. Những thứ quần áo đó họp thành một phần thân
xác ta và cũng là “thịt và máu” với tâm của mỗi người
chúng ta nữa. Chính vì thế, hiểu theo nghĩa rộng, môi trường
như hoa quả, cây cối, sông suối và đồi núi cũng vậy. Toàn
bộ những chúng sanh và những pháp đó đều đi theo với ta,
chính vì vậy Đức Phật đã dạy, toàn bộ những chúng sanh
họp thành bốn “giới”, sự khác biệt là ở chỗ nơi cõi
vô hình và tinh tế của cõi hữu tâm, thực tế này xem ra
rõ ràng hơn nơi cõi đời đầy thô thiển này. Vì thế thân
xác của những chúng sanh vô hình, Đức Phật gọi chung là
Hóa Sinh (Opapātika) cũng được cấu tạo do bốn giới
căn bản đó, giống hệt như những giới của con người chúng
ta trên đời này. Tuy nhiên chúng có phần tinh tế hơn so với
bản sao của chúng thuộc cõi đời này. Chính vì thế mà chúng
ta cho là chúng có ‘Sukkhumarūpa’ nghĩa là “sắc tế” với
mức độ khả năng cao hơn, tuy nhiên mờ nhạt hơn bản sao
của chúng trên cõi đời này. Đối với chúng thân xác, khung
cảnh xung quanh rất hiện thực, và sống động như thể chúng
vẫn hiện hữu và quan sát được y hệt như trên cõi đời
này, giác quan của chúng vẫn hoạt động tốt hoặc ở một
số trường hợp còn tốt hơn nữa là đàng khác. Chúng tồn
tại trên mặt đất này rất vững chắc, chắc chắn, chúng
có thể nhìn thấy, nghe, ngửi nếm v.v… theo cách chúng vẫn
thường thực hiện trước kia khi vẫn chưa được coi như
đã chết. Chúng cũng có nước da khác, có thói quen khác- những
điều thích và ghét. Bất kỳ thái độ tâm linh nào chúng
vẫn có trên cõi đời này, vẫn thuộc về chúng trên cõi
thần tiên đó. Cõi vô hình đó lúc này trở thành nơi
họ cư trú cũng tạm thời như cõi trái đất này là điều
gì giống như các trạm, các nhà trọ trên đường di chuyển
luân hồi trong cuộc hành trình xoay vần. Thực chất chuyến
đi này mang sắc thái con đường vòng quanh hay quanh co là vì
đối với hầu hết các chúng sanh, xuất hiện trên cõi đời
này sau khi đã khởi hành từ một nơi xa xăm nào đó và sau
một chuyến hành trình chúng lại rời khỏi cuộc sống này
đã được tái sinh ra ở trên trần gian này và chỉ xuất
hiện ở đây một lần nữa vào cuối một tuổi thọ tối
đa nào đó– điều này cứ diễn tiến thành một hình vòng
tròn. Nơi một số trường hợp còn là một hình vòng tròn
đầy khổ ải, cho dù yếu tố thời gian nơi mỗi trường
hợp xem ra có vẻ khác nhau rất nhiều.
Sự
hiện hữu những biến cố “hóa thạch” được lưu giữ
trong các hồ sơ vũ trụ (đôi khi được gọi là “Akasic”)
làm nổi bật khả năng nhớ lại tiền kiếp và khả năng
nhận ra những biến cố được ghi lại nơi cõi hữu tâm của
một chuyên viên quan sát được huấn luyện kỹ càng. Tuy nhiên
điều này rất khác với khả năng quan sát và giao tiếp với
những chúng sanh vô hình, Hóa Sinh (Opapātika) bằng những trình
độ thiền khác nhau. Vấn đề này có thể gồm lại trong
lãnh vực Phép Nhãn Thông (clairvoyance) nhìn thấu những vật
vô hình được dưới dạng cao nhất là Dibbacakkhunñāṇa Thiên
nhãn thông hay Cutūpapātanñāṇa có nghĩa là Sanh Tử Thông
vậy. Xét trường hợp khả năng cô Sriphen được chứng kiến
và đàm đạo với những chúng sanh vô hình, đây thực sự
vẫn chưa phải là Sanh Tử Thông (clairvoyance) thực sự, vì
nàng vẫn chưa thể nhìn xuyên qua tường, chẳng hạn, và như
thế thì nàng có thể nhìn thấy bất kỳ điều gì rất nhỏ
hoặc rất xa đối với con mắt thường và không được luyện
tập. Khả năng của nàng chỉ có thể được coi như là trạng
thái Nhãn Thông mở đầu mà thôi (đầu tiên) và còn được
gọi là thiền ngủ (sleep meditative) có nghĩa là thiếp đi lúc
nhập thiền là lúc con người có thể nhìn thấy những người
đã quá cố. Tuy nhiên vẫn có sự khác biệt, nơi cô chỉ
là giấc ngủ trong niệm và đã được kiểm soát, rất thoải
mái, theo ý muốn và ngay tức khắc.
Biến
cố Cô Sriphen đã có thể quan sát thấy những khung cảnh thực
sự đã diễn ra hàng ngàn năm về trước nơi những địa
điểm trong cuộc đời Đức Phật không phải là nhớ lại
những biến cố đã qua. Khả năng thiền của cô đã được
gia tăng do khả năng của các chúng sanh cõi thiên họ biết
rõ nàng đang ở vị thế cần được trợ giúp bằng những
phương cách đó và thực sự Cô đã thực hiện được như
vậy là do sự trợ giúp của các chúng sanh thần tiên vậy.
Chẳng
Có Gì Phải Tan Biến Luôn
Lúc
này lại có một vấn đề – rất có ý nghĩa đối với những
ai muốn nghiên cứu và đào sâu đến từng chi tiết. Chúng
ta biết bằng cách nào, toàn cảnh cụ thể của công viên
Lumbini đã xuất hiện hơn hai ngàn năm qua, không thể biến
khỏi cõi trần gian này một cách như thế, nhưng không thể
được, vì chẳng còn dấu vết gì tồn tại cho đến ngày
nay. Nhưng cô Sriphen vẫn có thể nhìn thấy thông qua phép thiền
của cô, quang cảnh và biến cố đã diễn ra tại đó vào
thời đó. Liệu có thể đó là cảnh thực tại và biến cố
đó vẫn tồn tại chăng, và chờ có người “quan sát” đầy
tiềm năng để mà nhìn thấy chăng? hay có thể bất kỳ ai
đó cũng có nhìn thấy được chiếu lại hay là được tái
tạo lại, từ trí nhớ của những chúng sanh nơi đó khiến
cho cô có thể nhìn được chăng? cho dù những cảnh tượng
thực sự và biến cố đó thực chất đã biến mất?
Trước
khi mạo muội làm sáng tỏ những điểm này, tôi đã yêu cầu
cô Sriphen liên lạc với các chúng sanh chư thiên và hỏi họ
xem làm sao điều này có thể diễn ra được. Đây là câu
trả lời của họ.
“Những
cảnh quan về những biến cố trên cõi đời này như thể
các biến cố đã xảy ra tại công viên Lumbini. cho dù đã
biến mất hoàn toàn vào dĩ vãng và không còn thu hồi lại
được nữa, nhưng vẫn còn lại và tồn tại nơi các cõi
thiên hà (astral world). Toàn bộ các sinh vật hay vô sinh vật
đều được tái sanh do Tinh tiến (energy) mà ra. Sau khi Sắc
(form- Rūpa) của chúng đã tàn rồi. Sắc đó biến đổi thành
một thực tại khác đó là Tinh tiến được thanh tịnh (refined),
trong đó các vật thể này vẫn tồn tại. Những Tinh tiến
“hóa thạch” này, ta có thể gọi như thế, chính vì thế
mà trở thành khó quan sát hơn và như vậy cần phải có một
sức mạnh tâm linh hơn, và tinh tế hơn đó là Tinh tiến thiền
(meditative energy.) để có thế “tiếp xúc “với chúng được.
Cũng
cần lưu ý là tất cả những chúng sanh trong cõi Thiên hà
không thể nhìn thấy hoặc quan sát được những cảnh tượng
trong đó một cách giống nhau và ngang bằng nhau đâu. Mỗi
chúng sanh ở cõi đó đều hơn kém bị giới hạn hoặc hạn
chế tùy thuộc vào các tưởng riêng những pháp này. Điều
này lại tùy thuộc vào mức độ trưởng thành hay phát triển
siêu nhiên của từng chúng sanh. Những kẻ nào đã đạt đến
trình độ Thiền Vô Sắc Giới (arūpa jhāna) đang khi còn ở
trên cõi đời này, đã vượt qua được tư tưởng về bản
ngã nơi toàn hộ thọ mệnh của họ. Sau khi thân xác của
họ đã tan rã, họ đạt đến được Cõi Vô Sắc Giới (arūpa
visaya). Ở đó thân xác họ đã trở nên thanh tịnh hoàn hảo
nhất. Được Thanh tịnh hoàn hảo đến nỗi ngay cả những
người đạt đến mức độ Nhãn Thông cao nhất vẫn không
thể nhìn thấy họ (nhưng xúc vẫn diễn ra thông qua liên lạc
tri thức với nhau) Cũng như vậy các chúng sanh Hóa Sinh (opapātika)
nơi các cõi thấp hơn không thể nhìn thấy được những chúng
sanh cao hơn, tâm và sở hữu tâm của họ được thanh tịnh
và tinh tế hơn. Tóm lại, bản chất môi trường nơi cõi Hóa
Sinh (opapātika) rất phù hợp với những chúng sanh cư ngụ
tại đó.”
Lời
giải thích ngắn gọn ở trên xem ra mang đậm hình thức cao
siêu, soi rọi một chút ánh sáng nơi tâm của tôi như thể
hiểu được sự thật về việc nhớ lại tiền kiếp. Sau
đây là những chân lý được rút ra từ đó.
Chẳng
có gì phải vĩnh viễn biến mất cả.
Sắc
pháp thì bao gồm có năng lực, cả hai đều có khả năng hoán
chuyển lẫn nhau. Thân xác con người xuất hiện thông qua sự
hiện diện của tâm. Sau khi thân xác đó tan rã, con người
trở nên vô hình, được gọi một cách chung là chúng sanh
Hóa Sinh (Opapātika). Lúc đó thân xác của ta, cho đến khi nhập
được vào cõi cuộc sống thích hợp với mức trưởng thành
của con người vào từng thời điểm, giống như thân xác
trên thế gian này. Một khi đã gia nhập vào cõi thích hợp
riêng cho từng đối tượng như đã nêu trên, thân xác con
người sẽ mặc lấy một hình dáng và nhiều sắc thái phù
hợp với cõi đó. Nếu như tạm rời khỏi cõi đó (tạm thời
như trong một cuộc thăm viếng) thì thân xác của người đó
sẽ hiện nguyên hình con người trước kia.
Điểm
liên quan đến quần áo hay trang phục như đã đề cập đến
ở trên cũng cần phải xem xét. Làm sao trang phục có thể
đi theo với người đó? Đương nhiên họ còn đi song hành
hay là cả bản sao của trang phục trước kia người đó đã
mặc. Nhưng bằng cách nào trang phục đó lại hiện hữu được
ở một chiều kích hiện thực khác?
Một
điểm khác nữa là đồ ăn do các chúng sanh Hóa Sinh (Opapātika)
sử dụng. Nơi một số trường hợp các đồ ăn này giống
hệt như những gì được sửa soạn nơi cõi trần thế này.
Thức ăn hay hoa quả họ hàng thân thiết cúng cho người quá
cố trên cõi đời này thông qua dâng của bố thí cho các tỳ
khưu (charity = dāna) cho các tỳ khưu cũng được thấy xuất
hiện nơi cõi của người quá cố. Chính xác như trên cõi
đời này, làm sao điều này có thể xảy ra?
Còn
có một trường hợp đã được ghi lại trong tập tin của
chúng tôi. Điều này có liên quan đến những khảo cứu khảo
cổ tại một thiền viện tên là Wat Klong, tại thị trấn
Khoobua, một tỉnh miền nam Rajhuri. Ngôi chùa này được xây
dựng cả ngàn năm qua. Những gì còn lại của ngôi chùa đó
chỉ là những nắm đổ nát nơi cấu trúc móng mà thôi. Chúng
ta không còn biết gì về thượng tầng cấu trúc của ngôi
chùa này: một Phòng Trai giới (Uposatha) hay là một tịnh xá
chăng hay là một thứ gì khác. Thông qua khả năng thiền của
Cô Sriphen, chúng ta được biết đây là nền móng của một
tịnh xá (vihāra). Quang cảnh được cô nhìn thấy hoàn hảo
đến từng chi tiết, đến nỗi chúng ta có thể vẽ được
một bản phác họa của ngôi chùa đó và so sánh với bức
hình mang tính nghệ thuật vào thời đó.(Trường hợp này
đã được trình bày tiết trong một tập sách nhỏ bằng tiếng
Thái mang tựa đề Voices From Heaven. Cuốn 5)
Nghĩa
Rộng Hơn Của Từ “Tinh tiến’ (Energy)
Đây
là một ví dụ khẳng định pháp “không có gì bị biến
mất và vạn vật, cả sinh vật lẫn các vật không có sự
sống đều thể hiện ra bằng tinh tiến (sinh lực). Tuy nhiên,
‘tinh tiến” (sinh lực) này được khám phá và tái phát
hiện như thế nào nơi các nhà khoa học hiện đại vẫn còn
rất giới hạn và còn xa mới đạt đến hoàn hảo. Khoa học
chỉ làm rõ được một vài khía cạnh. Nhưng vẫn chưa nhận
ra, sự hiện diện và sức mạnh của tinh tiến (sinh lực)
của tâm. Chính sinh lực (tinh tiến) này là bản chất hay là
nguyên lý căn bản từ đó vạn vật trong vũ trụ này phát
sinh ra một trong những công thức đó đã được khẳng định
trong y tương sinh (paṭiccasamuppāda) (nhân quả) hay là luật
duyên khởi (Law of Dependant Causation) không được quan tâm đúng
mức cho dù nguyên lý này công bố một chân lý sâu xa nhất
và trực tiếp liên quan đến cuộc sống mọi sinh vật. Kể
cả loài người và loài vật. Thí dụ như thú vật và chúng
sanh nơi cõi vô hình, hóa sinh (Opapātika) thì nguyên lý này
khẳng định: nơi tâm, có Rūpa (n.l. Sắc hay còn gọi là bốn
giới) có Sắc xuất hiện thì cũng hiện diện tâm.”
Một
số lời dạy của Đức Phật hỗ trợ và giải thích công
thức như sau:
a-
Ananto Ākāso (nguyên văn, hư không là vô biên) (Ghi chú: không
khí ở đây phải hiểu là không gian nhưng thường được
hiểu như vậy, có thể được hiểu như là nhiều loại khí.
Cũng còn có cả không gian bên trong một nguyên tử thuộc bất
kỳ vật chất nào).
b-
Anantaṃ Vinñnñāṇaṃ: thức cũng vô biên (điều này đã
được thảo luận trong một tác phẩm của tôi có tên là
BUDDHOLOGY. Hiện đã được dịch sang Anh ngữ)
c-
Manopubbaṇngamā Dhammā Manoseṭṭhā Manomayā: Tâm (hay ý) là
bản chất của mọi pháp (n.l. pháp gì là vật chất. Phi vật
chất, và luật tự nhiên) Điều vượt trội hơn tất cả
mọi Pháp chính là Mano (có nghĩa là tâm) toàn bộ Pháp đều
chỉ là sản phẩm tâm mà thôi.
d-
Trong Ky-tô giáo cũng tồn tại một giáo lý giống như những
trích đoạn về bản chất vật thể như sau, Thiên Chúa tạo
dựng nên vũ trụ và vạn vật trong đó. Thiên Chúa hiện hữu
khắp nơi.
Sống
Mãi Sau Khi Chết
Tôi
tin là hiểu thấu đáo được những nguyên lý này sẽ khiến
cho không mấy khó khăn để chấp nhận một pháp khác đó
là: con người ta có thể vẫn còn sống ở đâu đó,
sau khi đã rời khỏi (chết) cõi đời này. [2] và toàn bộ
sự vật, sau khi đã tan biến khỏi cõi đời này, vẫn còn
tồn tại trong cõi hữu tâm.
Theo
lời Đức Phật dạy, tâm vẫn còn bị Ái dục (Tanha) lấn
áp thì buộc phải trải qua một qui trình tái sanh, và kết
quả là một qui trình tái tử liên tục. Tái sanh lại đề
ra một lần sanh khác tương ứng với Sắc (rūpa) (hình thể
hay là vật chất n.l. thân xác). điều đáng lưu ý ở đây
là từ “Rūpa’ ở đây không nhất thiết phải hiểu là
hình dạng hay là thân xác của một chúng sanh sống. Nơi vô
hình, hóa sinh (Opapātika) cũng có thể thấy đất, cây cối,
hoa quả, quần áo, nhà cửa và đường xá. Toàn bộ những
thứ đó đều hàm chứa trong ý nghĩa của từ “rūpa”.
Ngoài
trừ những con người nơi các cõi Hóa Sinh (Opapātika) trông
giống con người trên cõi dương thế này, ta còn có thể thấy
thú vật ở đó, kể cả những gì đã bị tiệt chủng khỏi
cõi đời này như loài khủng long chẳng hạn. Những điều
này xem ra có vẻ không chắc xảy ra nhưng ít nhất thì vẫn
còn là những thực tế đang chờ được quan sát và phát hiện,
ta có thể nói như thế. Để có thể sẵn sàng ít nhất là
cân nhắc và tìm tòi một cách vô tư điều gì đã diễn ra
vượt khỏi bức tường nhà tù năm giác quan của ta.
Việc
nhớ lại tiền kiếp nơi Đức Phật, kể cả tiền kiếp của
ngài lẫn của người khác, rất hoàn hảo và không giới hạn
trong không gian và thời gian. Ngài có thể quay trở lại với
mọi biến cố xảy ra trong cuộc sống của một người hàng
ngàn năm hay hàng triệu năm về trước, ngay cả hàng nhiều
đại kiếp đã qua. Khả năng này còn gồm cả việc Ngài nhìn
thấy những biến cố trong quá khứ xảy ra tại một địa
điểm cũng như cho một người hay cho nhiều người theo ý
muốn của ngài. Như vậy những môi trường, hoàn cảnh, thực
phẩm, quần áo và toàn bộ những yếu tố có liên quan cũng
được biết đến. Những “cảnh tượng” như vậy không
phải là tưởng tượng hay ảo giác. Chúng thực sự là những
hiện tượng có thật và những biến cố thực. Một ví dụ
để chứng minh theo như chính lời của Ngài kể lại cho Trưởng
lão Ānanda vào những ngày cuối cùng của ngài, ngài cho biết
ảnh hưởng của thành phố Kusināra, nơi ngài sắp sửa đi
qua, sẽ trở thành một thành phố lớn, là quê hương của
một vị vua hoàn vũ và như vậy sẽ trở thành một thành
phố thịnh vượng đông đúc dân cư và có nhiều nơi vui chơi
giải trí. Không phải là một thành phố nhỏ, chẳng có ý
nghĩa gì vào thời điểm đó. Điều này chứng tỏ một sự
thật là Đức Phật có thể nhìn thấy điều gì đã xảy
ra ở đâu đó rõ ràng đến từng chi tiết. Kể cả toàn bộ
dân cư và các biến cố xảy ra tại đó. Sự kiện đề cập
đến ở trên, như đã được kể lại cho tôi do các thần
tiên thông qua cô Sriphen. Cũng nên được đề cập đến ở
đây một lần nữa, đặc biệt là hậu quả cho thấy, sau
một quãng thời gian lâu dài đã trôi qua. Hình thức sinh lực
(tinh tiến) được hoàn thiện hơn nơi những biến cố đó
đã trở thành và hành thiền sâu và rộng, nếu như có ai
đó đề cập đến từ này, đó là hành thiền phải cần
đến để “mở ra” được những biến cố này.
Một
Sự kiện Hai Yếu Tố
Sự
kiện Cô Sriphen được chứng kiến, được lý giải theo kiểu
các chúng sanh cõi trời, được diễn ra nhờ hai yếu tố như
sau. Trước tiên, khả năng nhập thiền của cô chưa đủ mạnh
để có thể chứng được những cảnh tượng đó cách trực
tiếp và phải được tăng cường sức mạnh nhờ vào các
chúng sanh cõi trời. Ở một chừng mực nào đó có thể nhìn
thấy được. Thứ hai, những người trợ giúp đó là những
người thường nhìn thấy những biến cố đó và trấn thủ
một vị trí hết sức hữu hiệu. Họ giúp tái tạo lại những
‘hóa thạch’ và khiến cho những hóa thạch đó bớt tinh
tế hơn, hay ít thô thiển hơn vào đúng thời điểm đó (nghĩa
là sau một quãng thời gian dài hơn hai ngàn năm.)
Ở
đây ta nên lưu ý một điểm là truớc khi có thể nhìn thấy
cảnh quang núi Hy-mã-lạp-sơn (Himala) hùng vĩ (hay thực tế
là một cảnh quang bất kỳ) cô đã phải tuân thủ theo một
nguyên tắc là phải rút vào nội tâm và rồi quên hết những
gì đang diễn ra bên ngoài. Điều này đã diễn ra mỗi lần
cô bước vào chiều kích vô hình. Tức là cõi hóa sinh (Opapātika).
Tuy nhiên, lần này, cô hay đúng hơn là khả năng nhập thiền
của cô được tăng cường do các chúng sanh trời cao. Vì mức
độ thiền của cô rơi vào một vị thế cần được hỗ
trợ. Điều này hiểu ngầm một sự thật là loại trợ giúp
này không thể hoàn thành nếu không có sự đáp ứng nơi người
được trợ giúp. Trong trường hợp như vậy khác biệt cần
phải được hòa giải và khoảng cách quá rộng để có thể
vượt qua.
Tận
Dụng Những “Hóa Thạch”
Có
nhiều giải thích từ những thiên nhân giúp tăng cường khả
năng nhập thiền của cô. Người trợ giúp tái tạo ra cảnh
quan đó từ những ‘hóa thạch’ hay từ những ‘nắm tro
tàn” còn lại nơi cõi tiên phải là những người cư ngụ
ở các cõi đó, vào thời điểm đó và thường được chứng
kiến chính những cảnh quan đó. Điều này cho thấy ngoài
sức mạnh nội tại để có thể tái tạo lại cảnh quan,
không phải tất cả các thiên nhân được chứng kiến những
cảnh quan như vậy có thể làm thể được. Lý do như đã
đề cập đến ở trên những hóa thạch này đã trở nên
tinh tế hơn qua khoảng khắc thời gian và đã trở nên vô
hình ngay cả đối với những thiên nhân không có khả năng
tái tạo lại.
Ngài
còn nhấn mạnh thêm để có được kết quả vừa ý nhất,
việc tái tạo này phải được thực hiện ngay tại địa
điểm biến cố đã xảy ra. Điều này phải sử dụng đến
những “hóa thạch” còn lại ở đó. để giúp dễ dàng
cho việc tái tạo. Trong trường hợp sự kiện này được
thực hiện ở nơi khác, thì việc tái tạo này có thể được
phân biệt khỏi biến cố trước đó, như là một bản sao
được tái diễn từ trí nhớ. Một khác biệt tinh tế trong
trường hợp trước có thể thấy, nhưng phải cần đến một
con mắt tinh tế, hay một người quan sát am tường để phát
hiện ra điều đó.
Tuy
nhiên, một điểm hết sức tế nhị được nói thêm. Một
chúng sanh từ trời đã có lần tái tạo lại cảnh quan đó
thông qua những hóa thạch đó ngay tại địa điểm chính xác
nơi đã thực sự xảy ra biến cố đó, cũng có thể tạo
ra một bản sao cho cảnh quan đó nơi một địa điểm khác
nếu muốn. Điều này hoàn toàn khác với trường hợp một
thiên nhân khác chưa bao giờ thực hiện bất kỳ một tái
tạo nào tại một nơi nào đó.
Từ
những điểm được thảo luận cho đến giờ, Có một sự
thật quí giá cần phải được nghiên cứu về nguyên lý căn
bản này, đó là, xét cho cùng hay xét từ góc độ chân lý
tuyệt đối, mọi sự nghĩa là mọi người, mọi cảnh quan
và mọi biến cố, đang hiện hữu ở một trạng thái sóng
âm hay rung động với vô số những chu kỳ khác nhau ta gọi
là tần số. Đây là cách nhìn vật chất dưới dạng phân
tích chung cuộc từ quan điểm khoa học.
Tuy
nhiên, điều này cũng đề ra một khả năng được biết chính
xác, không cần suy luận hay lý luận, thí dụ như, sự phát
sanh và phát triển của hành tinh trái đất. Tuy nhiên nguồn
trí tuệ này vẫn còn quá chủ quan, một tiếp cận cho khoa
học chính thức vào lúc này và rất ít các nhà khoa học,
trừ một số người với thiện tâm và một mức độ chịu
đựng nào đó có thể chấp nhận điều này, ít nhất là
tiếp tục nghiên cứu một cách nghiêm túc, không kể đến
sự thật gượng gạo thiếu tự nhiên được thiết lập trong
y tương sinh (Paṭiccasamuppāda) “nơi đâu có thức thì cũng
xuất hiện danh và sắc”: được nêu cách đơn giản như
sau “Một thân xác được coi như là sống động thông qua
nguyên lý ý thức, hay là cõi hữu tâm (Vinñnñāṇa) nghĩa
là không chỉ thông qua kết hợp thích đáng một lượng yếu
tố vật chất thích hợp và những phản ứng hoá học ngẫu
nhiên sẽ đem lại kết quả ngay sau đó.
Gia
Tăng Ý Thức Nơi Phương Tây
Tuy
nhiên, điều này không vẽ nên một bức tranh ảm đạm về
khoa học và các nhà khoa học. Trong những năm vừa qua đã
xuất hiện mối quan tâm ngày càng tăng và một ý thức tinh
tế về khả năng có cuộc sống sau khi chết hay là cuộc sống
vượt qua nấm mộ. Thật đáng ngạc nhiên, điều này xuất
hiện chủ yếu ngay tại phương Tây và trong số những người
có kiến thức như là các nhà vật lý và khoa học nhưng trong
thâm tâm của họ đều không xuất hiện nghi ngờ gì và những
nghiên cứu chân thực và có hệ thống đã được kết tinh
lại dưới dạng một số sách và các chuyên luận ngày càng
nhiều. Tất cả họ đều khẳng định khả năng, ít nhất
cũng cho là, về lý thuyết tái sanh của phương Đông và thuyết
nghiệp chướng (Karma) của Phật giáo. Từ hiện tượng đáng
ngạc nhiên này tôi đã liều tin rằng trong một tương lai
gần rất có thể vài ba thập kỷ nữa kể từ nay. Đã đến
lúc khái niệm này sẽ trở thành “tài năng chưa được khám
phá” xuất hiện từ bàn tiệc và sẽ gặp được “ý trung
nhân” của nàng. Ý tưởng có sự sống vượt khỏi cái chết,
sự tồn tại do kết quả của nghiệp chướng, tái đầu thai
hay là tái sanh. Cùng với việc nhớ lại tiền kiếp và cuộc
sống tương lai sẽ được thảo luận công khai một cách xứng
đáng. Không còn được coi khinh như hiện nay nữa. Đây là
lý do tại sao tôi đã cố gắng thử mạo hiểm để thực
hiện tác phẩm này và giới thiệu nó như là một món ăn
cho những người tìm kiếm thành tâm và nghiêm túc trước
pháp trong những lời dạy của Đức Phật. Còn đối với
chính bản thân tôi, cho đến nay quá nhiều chân lý chưa được
biết đến đã bắt đầu hé mở nơi tôi thông qua việc giải
thích ngắn gọn tôi vừa trình bày ở trên. Những chúng sanh
đó có thể được thấm nhuần cho dù tôi vẫn chưa được
biết và chỉ cần họ suy nghĩ một cách ngắn gọn nhưng lời
diễn giảng cô động và trực tiếp là đủ vậy. Thiếu điều
này tôi phải thú thật là mình vẫn còn đang đi trong bóng
tối và tôi không biết còn bao lâu nữa cùng lúc đó điều
này đã thúc tôi liều nghĩ rằng việc Nhớ Lại Được Tiền
Kiếp sẽ trở thành một sự thật được chấp nhận, việc
nghiên cứu khảo cổ và những nghiên cứu được bổ sung
thêm một cách chắc chắn do phương pháp của cô Sriphen về
việc giao tiếp với các chúng sanh vô hình ở một góc độ
đặc biệt và yêu cầu họ tái tạo hay tạo ra một bản sao
từ đống đổ nát của các cơ cấu cổ xưa.
Ở
mức độ người Phật tử quan tâm, triển vọng, hay nói chính
xác hơn khả năng của Đức Phật nhớ lại được tiền kiếp
kể cả tiền kiếp của ngài lẫn của người khác, phải
được chấp nhận một cách nghiêm túc. Có một số Phật
tử vẫn không tin vào khả năng Tuệ giác của Đức Phật
điều này tương đương với việc chối bỏ một trong những
tính ngữ của Đức Phật đó là Vijjācāraṇasampanno (Minh
hạnh túc): “Minh và Hạnh tuyệt hảo” Từ VIJJĀ ở đây
có nghĩa là Tam minh hay là sáu Thắng trí (Vijjā) và Thần thông
(Abhinñnñā). Ba Minh đầu đó là: Pubbenivasānussatinñāṇa (Nhớ
Lại được Tiền Kiếp) Cutupapātanñāṇa (Sanh tử thông) và
Āsavakkhayanñāṇa (Lậu tận thông). Sáu khả năng sau là: Iddhividhi
(thần túc thông), Dibbasota: Thiên nhĩ thông (clairaudience); Cetopariyanñāṇa:
tha tâm thông; và ba loại vừa đề cập đến ở trên.
Trong
những đoạn kinh các Phật tử Thái Lan tụng vào buổi sáng
(do Vua sãi Monkut, vua trên danh nghĩa nhưng thực chất là một
vị tỳ khưu) có một đoạn bằng tiếng Pali như sau: “đọng
sacchikatvā pavedesi có nghĩa là Đấng Như Lai (Tathāgata) biết
được (n.l. Thể hiện được) muôn vật chính ngài khiến
cho mọi người khác cũng làm được như vậy”, “kẻ khác”
mà ngài muốn truyền tuệ giác cho gồm cả con người và các
chư vị thiên, các vị Sa môn, lẫn Bà-la-môn (Brahma), trên
cõi đời, nơi cõi chư thiên, cõi Ma-vương (Māra) và cõi Phạm
thiên. Đoạn văn Pali viết như sau: Yo imaṃ lokaṃ sadevakaṃ
samārakaṃ, sabrahmakaṃ sassamaṇabrāhaniṃ pajam sadevamanussaṃ...).
Một
Thái Độ Đáng Tiếc
Đối
với các Phật tử nhiều điều thất lợi, hay thực tế còn
là những điều ác nếu họ không tin có thể nhớ lại tiền
kiếp và những tuệ giác khác hoặc giả không tin vào một
số trí Thần Thông khác. Thật đáng tiếc, họ đã sao nhãng
những điều này và trong nhiều trường hợp họ lại tuyên
bố thẳng thừng điều thất tín như vậy một cách kiêu hãnh
và tự coi mình là những người có đầu óc khoa học. Bất
chấp thực tế là chính vì điều bất tín và thái độ hoài
nghi như vậy đối với một bộ phận Giáo Lý của Đức Phật
đã khiến xuất hiện ngày càng gia tăng những tội ác hay
bạo động do tham lam và sân hận nơi những ai tự coi mình
là Phật tử. Tôi xin trích dưới đây chính những lời dạy
của Đức Phật khẳng định những lợi ích do niềm tin đó
mang lại và những điều tai hại sẽ xảy ra nếu chối bỏ
những lời dạy đó.
“Ôi
các vị chủ gia nhân, đó có những vị Sa môn và các vị
Bà-la-môn (Brhamin) đã phát biểu và kiên định những quan
điểm sai trái cho rằng:
1-
Lòng Từ Tâm chẳng đem lại hậu quả gì;
2-
Bố thí đại trà cũng chẳng đem lại hậu quả nào cả.
3-
Lễ Phật cũng chỉ là vô bổ mà thôi.
4-
Nghiệp chướng cho dù tốt hay xấu cũng chẳng có kết quả
gì đến ai cả.
5-
(theo nghĩa đen) Chẳng có gì tồn tại cả, nghĩa là cõi đời
này chẳng có ý nghĩa gì (ý muốn nói chẳng có ai bên ngoài
cõi đời này có thể tái sanh trở lại sau khi chết vì chết
là hết)
6-
(theo nghĩa đen) Ngoài cõi đời này chẳng còn cõi nào khác
nữa (ý muốn nói chẳng có ai sống trên cõi đời này lại
có thể đầu thai vào cõi nào khác vì chẳng có gì tồn tại
sau khi chết)
7-
Cha mẹ chẳng để đức lại cho con cái.
8-
Công đức của cha cũng chỉ lãng phí vì không thể truyền
xuống tới con cái được.
9-
Chẳng cho Hóa Sinh (Opapātika) (nghĩa là vô hình) nơi chiều
kích cuộc sống khác ngoài cõi đời này. (gồm cả việc chối
bỏ không tin có thiên đàng và hỏa ngục; chẳng có cuộc
sống quá khứ lẫn tương lai, cũng chẳng có cuộc sống trước
khi sanh và sau khi chết)
10-
Chẳng có vị Sa môn cũng như Bà-la-môn (Brahma) nào sau khi đã
theo đuổi chánh đạo và tu luyện Pháp đã có thể đạt được
Chánh Pháp (có nghĩa là trí thần thông. Thánh đạo, Thánh
quả và Níp-bàn). Họ chẳng có khả năng nào thể hiện được
gì ở cõi đời này cũng như ở cõi đời sau nhờ vào những
trí đó. Họ cũng chẳng có khả năng truyền đạt lại cho
ai để đạt đến mục đích chung này cả. (Điều này có
nghĩa là chẳng có các vị A-la-hán – những người đã tận
diệt được hết những thụy miên phiền não trong ta; chẳng
có người nào có thể đạt được phép thần thông hầu biết
được cõi thiên đàng và hỏa ngục. Chẳng có ai đã tận
mắt nhìn thấy được tiền kiếp, nghe được tất cả để
giao tiếp được với đấng vô hình nơi cõi Hóa Sinh (Opapātika).
Cũng chẳng có ai đạt đến được những phép thần thông
khác, vì đối với họ, điều này chỉ là không tưởng,và
đi ngược lại với bản chất con người).
“Ôi
chủ gia nhân, có điều chắc sẽ xảy ra đó là những vị
Sa môn và các thầy Bà-la-môn chủ trương và kiên định những
quan điểm đó, chắc sẽ nhàm chán với ba nguồn nghiệp chướng
thiện, nghĩa là qua thân, khẩu, ý. Thay vào đó họ sẽ chạy
theo ba nguồn nghiệp chướng bất thiện cũng thông qua thân,
khẩu, ý.
“Tại
sao thế? Đó là vì những vị Sa môn và các Đấng Bà-la-môn
đó không nhận ra điều xấu xa, tính đê hèn và những thiếu
sót nơi những nguồn nghiệp chướng bất thiện; họ cũng
chẳng thấy nghiệp chướng thiện là gì. Tiền kiếp vẫn
sờ sờ ra đó, thế mà họ lại kiên định quan điểm: chẳng
có kiếp sau. Chính vì thế quan điểm của họ hoàn toàn sai
lầm và suy nghĩ của họ cũng không đúng đắn. Trước một
thực tế rõ ràng là tiền kiếp sờ sờ ra đó, họ vẫn cứ
khẳng định là chẳng có kiếp nào tồn tại cả, chính vì
vậy lời chứng của họ thật là sai lầm lớn.
“Vả
lại, các vị A-la-hán đã biết được kiếp sau đang tồn
tại. Những kẻ nào chủ trương quan điểm chẳng có kiếp
sau, thì kẻ ấy đối kháng lại các vị A-la-hán. Họ công
bố Asaddhamma (những lời dạy sai lầm và vô đạo đức) họ
tin là như vậy và diễn giảng cho nhiều kẻ khác cũng tin
như họ. Thông qua giáo lý sai lạc đó họ tự biểu dương
chính mình và nhìn người khác với con mắt khinh miệt. (là
bởi vì những giáo lý sai lạc đó không thể đứng vững
được trước thử thách hay có những bằng chứng quyết định)
Những kẻ nào tuyên dương giáo lý đó tự bản chất chẳng
phải là người hào hiệp. Khi bị chống lại họ phải dùng
đến gây hấn để củng cố niềm tin) Vi phạm Giới luật
đối với những hạng người này thật quá dễ dàng vì họ
theo đuổi cuộc sống phi đạo đức. Thông qua những tà kiến
này, Ôi các chủ gia nhân, sẽ kéo theo vô vàn điều xấu phát
sinh.
“Liên
quan đến kiếp sau, ôi các chủ gia nhân, người khôn ngoan
có cảm thấy nhất thiết phải nghĩ chẳng có kiếp sau tồn
tại chăng; những kẻ làm điều bất thiện, liệu có bị
trừng phạt hay không; nhưng thực chất kiếp sau có tồn tại
hay không, những kẻ làm điều xằng bậy có phải tái sanh
nơi cảnh khổ hay chăng. Gác kiếp sau sang một bên, những
người theo tà kiến và những kẻ có hạnh kiểm bất hảo
có chắc bị những người thiện trí thức phê phán khiển
trách ngay trên cõi đời này hay không. Chắc chắn những kẻ
như vậy sẽ gặp phải hai điều bất lợi: bị khiển trách
nơi cõi đời này và sau khi chết sẽ phải vào khổ cảnh”.
(trích trong Apannakasutta Ma.)
Một
điều chúng ta phải đặc biệt lưu ý đối với những lời
dạy của Đức Phật nêu trên đó là thực chất các vị Sa
môn hay các Thầy Bà-la-môn chủ trương và kiên định những
tà kiến đó sẽ chẳng còn khả năng thực hiện được những
điều tốt lành, nhưng sẽ hoan hỷ lao vào những hành vi xấu
xa và thông qua tà kiến và hành vi vô đạo đức đó, sẽ
khiến cho hàng loạt những hành vi nghiệp chướng phát sanh.
Một
điểm nữa, cũng cần lưu ý đó là: trong mười điều nêu
trên, ta thấy đề cập đến những người kiên định tà
kiến không tin sẽ có những người đắc được phép thần
thông. Hiện nay,vấn đề là ở chỗ, có bao nhiêu Phật tử
dám hiên ngang chối bỏ những ân đức to lớn của Đức Phật?
và chẳng phải thói lơ đễnh và thái độ khinh mạn đó đã
dẫn đến thái độ vô liêm sỉ và bất chấp nguyên tắc
đạo đức và thực hiện bất kỳ hành động xấu xa tội
ác nào chỉ vì muốn đạt được tiền tài danh vọng và sức
mạnh hay sao.
Niềm
tin của tôi chính là, nếu chân lý Nhớ lại Tiền Kiếp được
chấp nhận và được truyền đạt đến cho mọi người biết
một cách hợp lý và có hệ thống, thông qua khoa học chính
thức, điều này chắc chắn sẽ đem lại niềm cổ vũ to lớn
cho những người đang làm điều lành và tránh điều dữ sau
khi đã thâm tín vào sức mạnh thưởng phạt của nghiệp chướng
họ đã làm, bất chấp họ có nhìn thấy hoặc thông hiểu
vấn đề hay không. Sớm muộn gì thì điều này cũng sẽ đi
đến kết quả là trong niềm tin vào khả năng Đức Phật
có thể đạt được nhiều phép thần thông, thực tế chẳng
có được những kết quả mang tính hoang đường đâu – tuy
nhiên qua niềm tin kiên cường vào những lời dạy của Đức
Phật về Nghiệp Chướng thì cá nhân, xã hội, kinh tế sẽ
kỳ vọng chắc chắn được tái sanh hạnh phúc và kết quả
tất yếu của hành vi công đức cũng như hành động xấu
xa.
Lý
Do và Phương Cách Nhớ Lại Tiền Kiếp
Ta
cần lưu ý đến một điều hết sức thú vị. Từ những
gì chúng ta vừa khảo sát, đa số trẻ em cả ở Thái Lan và
các quốc gia khác rất dễ dàng nhớ lại tiền kiếp của
mình. Một tác phẩm mang tính thông tin cao do bác sĩ Jan Stevenson
biên soạn nhiều năm qua thật đáng chú ý. Trong tác phẩm
này, tác giả là một nhân vật giàu kiến thức, một nhà
tâm lý học người Mỹ, đã thu thập được hơn 600 trường
hợp, trong mỗi trường hợp ông đều quan sát cẩn thận và
xem xét kỹ lưỡng trước khi chấp nhận là đáng tin cậy,
không hề lừa gạt và ảo giác. Vấn đề nổi lên là: Tại
sao trẻ em lại chiếm đa số? Và tại sao không phải tất
cả trẻ em đều làm được như vậy cả?
Một
câu trả lời ngắn gọn và khái quát cho tất cả các trường
hợp đó như sau: Những ai, sau khi rời khỏi cõi đời này,
đã lưu lại một khoảng thời gian ngắn nơi cõi Hóa Sinh (Opapātika)
trước khi được phải quay trở về “nhà mình” lại một
lần nữa. Một yếu tố khác nữa chính là họ biết được
trước khi chết là họ sẽ phải chết và có ấn tượng về
một số biến cố ngay trước khi từ giã cõi đời này. Nhìn
chung đây là điều có thể nói có liên quan đến câu hỏi
tại sao những người có thể thực hiện Nhớ Lại Tiền Kiếp,
lại đã từng làm điều đó ngay khi họ còn là trẻ nhỏ.
Tôi
ghi lại dưới đây những lý do đặc biệt và cá nhân hơn.
1-
Chúng ta có thể nhớ lại được tiền kiếp không phải vì
những biến cố đó đã được lưu lại trong đầu óc chúng
ta. Thay vào đó, chúng được ghi lại và tồn trữ bên trong
tâm hữu phần của chúng ta, có thể gọi là nơi sâu thẳm
tâm hữu phần của mỗi người (Bhavaṅgacitta). Bộ não con
người chỉ là một dụng cụ cho tuệ giác hoạt động, giống
hệt như con mắt chẳng hạn đối với thân xác chúng ta. Một
sự so sánh khả dĩ được tìm thấy nơi cây cối, cho dù được
mọc trên đất nhưng thực sự cây không phải do đất trên
đó cây cối mọc lên, cấu thành. Nguồn gốc, hay nguyên nhân
tác thành cho việc phát triển của cây chính là Hạt Giống
Cây, chứ không phải là đất. Đất chỉ là một nguyên nhân
công cụ. Chính vì thế các sinh hoạt của tâm, đang khi còn
tồn tại trong thân xác chỉ có thể hình thành được thông
qua não như là công cụ của tâm, nguyên nhân tác thành là
điều được gọi là Tâm hữu phần (Bhavaṅgacitta) mới có
thể tạo ra tiềm thức vô thức, hay hạ tầng hữu phần hoặc
là thượng tầng hữu phần vậy.
2-
Thân xác và tâm, được hiểu như là một liên kết và là
hai vật thể độc lập với nhau. Chính vì thế ta có thể
phân biệt được mỗi thứ khác nhau và thân xác sẽ bị phân
hủy vào lúc chết, có nghĩa là cái chết của thể xác, nhưng
tâm vẫn tiếp tục tồn tại. Hay là sống và bắt buộc phải
rời khỏi thân xác thô thiển và tạo ra một điều khác làm
chỗ cư trú, thích hợp với hoàn cảnh và môi trường được
gọi là vô hình có nghĩa là chúng sanh cõi trời, thuộc cõi
Hóa Sinh (Opapātika). Điều này diễn ra cho đến khi nào nó
vẫn bị Ái dục (Tanha) hay tham dục (desire) ảnh hưởng. Tuy
nhiên cuộc sống nơi cõi Hóa Sinh (Opapātika) chẳng hề trường
cửu hay bất biến, cho dù nơi một số trường hợp thì tuổi
thọ tối đa có thể vô cùng to lớn. Sớm muộn gì sẽ đến
thời khi mà các chúng sanh Hóa Sinh (Opapātika) sẽ kết thúc
tuổi thọ tối đa tại cõi đó và như vậy bắt buộc phải
quay trở lại có nghĩa là tái sanh một lần nữa nơi cõi con
người, đã là nơi ở cũ xưa nay của họ. Lần này chúng
phải lệ thuộc vào một thân xác thô thiển khác, không giống
như lần được tái tạo ra nơi thân xác thần tiên và không
thể thực hiện được ngay tức khác và theo ý muốn. Ta cần
đến bào thai một người mẹ dành cho mục tiêu là nơi và
thời gian cuộc sống vẫn chỉ là một đốm nhỏ xíu mắt
trần không thể nhìn thấy được. Đây là kết quả của
trứng được thụ tinh trong lòng người mẹ. Tâm hay thức
tái sanh nơi trứng đã thụ tinh này chẳng là gì khác hơn
là Bhavangacitta. Chính vì thế trong một vài trường hợp đặc
biệt trí nhớ được ghi vào ký ức có thể được mang sang
cho tới bên cuộc sống hiện nay. Trí nhớ đó lúc nào cũng
vẫn tồn tại ở đó và nếu nhận được kích thích thích
hợp sẽ có thể xuất hiện ngay trong tâm.
3-
Bộ não con người cho dù không phải là nguồn nhưng chỉ là
một chỗ ngồi, ấy vậy não lại giữ một vai trò quan trọng
chỉ cần nó còn là một phần thuộc thân xác thô thiển của
con người. Khi não chưa phát triển đầy đủ như trong trường
hợp đứa bé hay khi bắt đầu có dấu hiệu xuống cấp giảm
độ nhạy như trong trường hợp một số người lớn tuổi.
Nhiệm vụ của trí nhớ không còn hy vọng hoạt động hiệu
quả nữa. Điều này là có thật đối với những người
có não bị ảnh hưởng nghiêm trọng như trong trường hợp
bị tai nạn hay một số bệnh tật. Trường hợp này là chính
xác nhưng không tuyệt đối như vậy, nghĩa là không phải
tất cả mọi trường hợp như vậy đều đúng cả. Một số
người lớn tuổi vẫn có bộ não hoạt động rất tốt hoặc
còn tốt hơn lúc còn trẻ nữa là đàng khác. Đó là vì cả
bộ não và các bộ phận khác đều được tâm tạo ra nghĩa
là, tâm hữu phần (Bhavanga mind). Đối với những ai tâm đã
được tập luyện đủ do những giới đức hoặc hành vi lành
mạnh thì những luật ‘tự nhiên’ của thân xác không áp
dụng đầy đủ. Những người nào từ chối chấp nhận sự
chuyển tiếp được gọi là sự chết, hiểu được những
định luật cuộc sống ở đời sau và có được ấn tượng
đặc biệt về một vài điều gì đó trước khi ra đi vào
cõi thiên hằng. Sau một cuộc hành trình ngắn ngủi ở đó,
họ sẽ quay trở lại cõi đời này, những hạng người này
sẽ có thể nhớ lại tiền kiếp một cách sống động khi
họ còn là đứa trẻ. Tuy nhiên hầu hết các trường hợp
khi lớn lên, tâm của họ đã bị chồng chất hay nói đúng
hơn là đã bị quá tải trong mọi giây mọi phút hàng ngày
bằng những sự việc thuộc thế giới vật chất, những sự
việc này sớm muộn gì cũng sẽ làm choáng ngợp trí nhớ
của họ về Tiền Kiếp và sẽ quên hết toàn bộ những sự
kiện đó.
4-
Một bằng chứng khác nữa cho thấy trí nhớ làm nhiệm vụ
của tuệ giác chứ không phải bộ não. Đó là trường hợp
những chúng sanh Hóa Sinh (Opapātika) có được tâm lành mạnh
và tỉnh táo (nghĩa là nơi các cõi thiên giới). Những chúng
sanh này có khả năng nhìn lại cuộc sống nhân loại của
chúng, nhớ lại từng biến cố trong suốt tuổi thọ tối
đa tại dương thế này, như thể họ vẫn còn là con người
thực sự. Có một số người còn nhớ lại được những
gì xảy ra hàng thế kỷ trước. Trong những cuộc nghiên cứu
địa chất về khu vực đổ nát cổ xưa của thành phố Sukhothai
(tại Thái Lan) chúng tôi được kể lại những chi tiết cơ
bản về những biến cố vào thời đó do đế chế Sukhothai,
có nhà vua Ramkamhaeng là đại đế. Những sự kiện này đã
được ghi lại trong một công trình nghiên cứu của chúng
tôi mang tựa đề TIẾNG VỌNG TỪ TRỜI CAO bằng tiếng Thái
cuốn thứ năm (Voice from heaven, book 5).
Những
chúng sanh Hóa Sinh (Opapātika) còn có thể nhớ được các bạn
bè hóa sinh của họ hiện vẫn còn sống nơi cõi trần gian
này. Họ còn biết các bạn bè thường lui tới đâu và họ
hiện đang sống ở đâu, tên họ được gọi như thế nào
và cả thức ăn họ dùng trong nơi ở tạm thời dưới dương
thế này. Điều này cũng rất khớp với những gì họ ghét
hay hận thù khi còn sống bên họ. Nói một cách khác, họ
nhớ lại kẻ thù của họ đang cư ngụ ở đâu, tên họ là
gì và điều quan trọng hơn đó là khi cơ hội trả thù diễn
ra, họ sẽ có thể chống lại những kẻ thù khi xưa trên
cõi đời này nữa.
Trí
Nhớ Dai Và Không Thể Phai Mờ
Hiện
thời lại có một vấn đề khác nổi lên: tại sao những
chúng sanh Hóa Sinh (Opapātika) nói chung lại có một trí nhớ
dai đến thế, hình như không thể phai mờ được cho dù thời
gian có trôi qua. Câu trả lời trực tiếp và chính xác là
bởi vì thân xác của chúng sanh đó được tái sanh chủ yếu
do tâm (Viññāṇa) hay do thức. Có một điều ta cần lưu ý
đó là thân xác như vậy không thuộc bóng tối và cũng không
trống rỗng. Chúng sanh đó cũng có cả giác quan và tứ chi,
hoàn toàn đầy đủ với các bộ phận nội tạng như tim gan,
phèo, phổi v.v… họ cũng có nước da, máu và các bộ phận
khác giống hệt một bản sao của những sắc thân thô thiển
xưa kia trên cõi đời này một điều có thật là sắc thân
trên cõi đời này chẳng là gì khác hơn ngoài cái thân xác
ở cõi tiên, được coi như là tinh tiến (sinh lực) đang được
cô đọng lại để xuất hiện như là sắc pháp. - Điều đó
đươc coi như là vật chất tan rã đi và trở thành sinh lực
(tinh tiến). Chính vì sự thật này một người với một mức
độ thiền cao cấp mới có thể nhìn thấy được tái sinh
ra với một thân xác thần tiên của một con người đang phải
chết đi. Nói chung giống hệt như sắc con người vật chất
trên cõi đời này. Thân xác mới được sinh ra là do tâm hữu
phần (Bhavanga) tạo ra. Giống hệt như một thân xác được
sinh ra bào thai người mẹ vậy.
Thân
xác thần tiên do tâm sinh ra, hay nói chính xác hơn, trạng thái
hay chất lượng tâm chính là sự thể hiện hữu hình nơi
tâm trong sát na ra đi. Nghĩa là giây phút chúng ta ra đi vào
cõi thiên hằng. Thân xác này mang hình dáng và hình thù gì.
Tiến tới hay tụt lùi là do nó đáp ứng trực tiếp những
điều kiện siêu nhiên vào sát na quan trọng đó. Kinh Phật
so sánh sát na đó với điều kiện thức giấc sau giấc ngủ.
Như vậy sự chết giống như một giấc ngủ trong khi đó tái
sanh nơi cõi thần tiên giống như lúc thức dậy vậy. Như
một người khi thức dậy có thể nhớ lại được những
gì xảy ra trước khi ngủ chính vì thế một người được
tái sanh nơi cõi thần tiên cũng có thể nhớ được điều
gì xảy ra với người đó trên trái đất này trước khi người
đó ra đi.
Còn
có nhiều chi tiết đáng nhớ liên quan đến bằng cách nào
và tại sao chúng sanh Hóa Sinh (Opapātika) có thể nhớ được
cả những con người và những sự kiện xảy ra lâu đến
như vậy. Tôi thường hỏi một chúng sanh Hóa Sinh (Opapātika)
để biết thêm nhiều chi tiết. Dưới đây là lời giải thích
dành cho các độc giả quan tâm đến lãnh vực trí tuệ này.
Khi
một chúng sanh Hóa Sinh (Opapātika) chưa đạt được hiện trạng
thiền bậc bốn cảm thấy hiểu biết của mình về cuộc
sống quá khứ cả hình thức và những nét đặc trưng đều
thay đổi toàn bộ, hắn có thể nghi ngờ về thân phận con
người đó. Trong trường hợp này nếu người đó sử dụng
đến tuệ giác thì hắn có thể nhớ lại những trí tuệ
trước kia của mình, biết được người đó là ai và khi
nào và ở đâu họ đã gặp nhau trước kia. Tuy nhiên, trong
trường hợp người này đã qua đi khá lâu rồi, hắn có thể
biết được con người đó thường là người hắn quen biết,
nhưng không thể hình dung ra những nét đặc trưng của con
người ấy. Điều này chỉ có thể thực hiện được thông
qua trí nhớ được tích lũy trong chính tâm hữu phần. Chính
ở đó và sẽ được nhớ lại và tận dụng được mà thôi.
Nếu được đánh thức dậy và khơi dậy một cách đúng đắn.
Nếu như người đó vừa mới qua đi, hắn sẽ nhớ được
cả thân phận và hình dáng của người đó và những yếu
tố có liên quan ngay tức khắc. Nhưng một người đạt đến
trình độ thiền bậc bốn sẽ có thể thực hiện được
tốt hơn. Người đó có thể đối mặt với đủ mọi thứ
vào bất cứ lúc nào họ muốn.
Nắm
Được Nguồn Sinh Lực Cao Nhất
Toàn
bộ những dữ liệu trên đề ra những chân lý vô cùng giá
trị như sau:
1-
Một người nào đó muốn nhớ lại tiền kiếp thông qua hành
thiền, cần phải đạt đến ít nhất thiền Jhana bậc bốn
hay tốt hơn hết là đạt đến Thiền Vô Sắc Giới (Arūpa
Jhāna). Lý do được nhấn mạnh ở đây chính là hành thiền
cao hơn hay tinh tế hơn chính là phần sâu hơn tâm hữu phần
nắm được. Điều này được biết không thông qua ý thức
toàn diện về môi trường bên ngoài. Thậm chí một tiếng
sét đánh xuống gần đó cũng không thể gây xáo trộn được
người đang nhập bậc thiền này.
2-
Một chúng sanh Hóa Sinh (Opapātika) được tái sanh hoàn toàn
thông qua một bộ phận tâm hữu phần. Phần này là nơi tích
trữ những phẩm chất của tâm – trí nhớ, những điểm
yếu và mạnh, những khả năng tiềm ẩn và những điềm bất
tài. Những thích thú, chán ghét và quan trọng nhất, những
việc công đức và những hành vi tồi tệ. Loại hình tái
sanh này chính vì thế lại có thể dễ dàng tận dụng được
tâm hữu phần – dễ dàng hơn là con người, chỉ sử dụng
‘bề mặt’ của tâm, có thể nói như vậy.
3-
Những ai đã đạt được trạng thái thiền Jhana cao hơn hoặc
cao nhất có thể lôi kéo được nguồn sinh lực cao nhất.
Họ có thể loại trừ được toàn bộ những rắc rối và
những phóng dật ngoại phần, với một khả năng đem lại
là có thể mở ra được phần nội phần sâu thẳm nhất,
hay là phần sâu thẳm nhất trong tâm. Nếu bạn cần đến
một khái niệm hàng dọc. Điều này có thể nói con người
được phú bẩm cho một sức mạnh trí nhớ rất mạnh giống
như các chúng sanh Hóa Sinh (Opapātika) chúng có thể bật tới
mọi tần số đủ loại, nếu ta dùng các từ kỹ thuật hiện
đại. VHF (tần số cao nhất) hay UFH (siêu tần số) UHF (tần
số siêu cao) trong thực hành, hiểu theo nghĩa rộng, là những
tần số siêu cao.
Ta
cần lưu ý là, nói theo khoa học, chúng ta có thể nhìn thấy
các vật thể qua trung gian con mắt và ánh sáng có thể tạo
ra những giao động hay các chiều dài sức sóng một số loại
tần số kích hoạt nhiệm vụ của óc thông qua lăng kính của
mắt và các thần kinh nhãn. Nói cách khác hình ảnh hoặc bất
kỳ điều gì được nhìn thấy “bên ngoài” chính do tâm
chuyển đổi những sức sóng đó trở thành những vật bên
trong.
Thôi
Miên Có Vai Trò Gì Không
Có
những bài tường thuật của một số người thường mơ mộng
về những biến cố quá khứ, đôi khi chỉ là những sự kiện
nội trong cuộc sống hiện tại nhưng đã bị quên lãng hoàn
toàn và một số khác lại là những biến cố thuộc cuộc
sống quá khứ. Hiện nay, tâm lý học hiện đại đã có nhiều
phát triển ở một số lãnh vực khiến cho các nhà phân tâm
học có thể thôi miên thân chủ của mình để nhớ lại một
số biến cố vào khoảng thời gian khi họ còn là những đứa
trẻ hay là các thanh thiếu niên. Hoặc ngay cả một điều
hết sức ý nghĩa đó là ngay trước lúc sinh ra có nghĩa là
chính ký ức tiền thọ mệnh của chúng. Có khá nhiều trường
hợp này đã được tường trình và ghi lại và có rất ít
nghi ngờ tất cả đều là lừa lọc hay là ảo giác cả. Chính
vì vậy mà câu hỏi tại sao lại được nêu lên.
Câu
hỏi không khó trả lời nếu chỉ về vấn đề đó. Mức
độ thôi miên chỉ là ru ngủ thân chủ vào một giấc ngủ.
Đôi khi giống như lôi kéo họ vào một trạng thái hành thiền,
điểm khác nhau là giấc ngủ tự nhiên không cần phải một
ai bảo đảm kiềm chế ngay cả chính họ (vì đó chính là
chế độ của trí tuệ, hay là mindfulness) trong khi đó thân
chủ của người thôi miên lại bị người thôi miên khống
chế. Dưới một mức khống chế như vậy, sẽ không còn có
ý tưởng gây trở ngại về phía thân chủ. Không tỏ ra bất
kỳ kháng cự nào nhưng chỉ sẵn sàng nhận mệnh lệnh mà
thôi. Trong trường hợp thiền được đưa vào đủ mạnh đến
nỗi thân chủ có khả năng nhớ lại được những biến cố
truớc khi được sinh ra, thế thì điều này chính là ký ức
tiền thọ mệnh vậy.
Một
lần nữa chúng ta nên nhớ là không phải tất cả các thân
chủ đều có thể được thôi miên để làm được điều
đó; không phải tất cả những người thôi miên đều có
thể kiểm soát và ra lệnh cho thân chủ mình làm được điều
này. Điều này tùy thuộc vào một số yếu tố nguyên nhân
có liên quan đến cả hai phía đều là con người và chịu
lệ thuộc vào chân lý vật chất. Tuy nhiên, liệu có thể
thôi miên một số người để nhớ lại được ký ức tiền
thọ mệnh chăng. Tại sao những người khác lại không thể
ra lệnh để làm được những điều đó lại là một câu
hỏi hết sức phức tạp vào lúc này.
Lý
Do và Phương Cách đề Nhớ Lại Tiền Kiếp
Nếu
một người có khả năng nhớ lại quãng đời quá khứ của
mình ngay lập tức và theo ý muốn (không chỉ tự phát như
khi còn nhỏ), điều này có nghĩa là người đó đã đạt
đến bậc thiền Jhana cao nhất với mức độ thuần thục
đáng tin cậy (vasī). Một khả năng phát triển cao độ như
vậy có thể dễ dàng hướng sang khả năng Nhớ Lại Tiền
Kiếp của người khác nếu muốn. Điều này hàm ý khả năng
cắt bỏ ngay tức khắc và tùy ý toàn bộ những trở ngại
về tư tưởng và tình cảm diễn ra như là điều khiến ta
phân tâm. Không có gì ngăn cản bước tiến, và với tâm được
hướng tới hậu cảnh cuộc sống của bất kỳ ai, bất cứ
lúc nào và khi nào, ta có thể trông cậy có được kết quả
đáng tin cậy và chính xác.
Một
điều tương tự như thế, tuy không tương đương có thể
được kể ra trong trường hợp đọc được tâm của người
khác bằng phương cách phát triển cao cấp. Một khả năng
như thế nơi một người khác có thể phá vỡ “bức tường
âm thanh” chẳng hạn, trong khi đàm đạo với người đó
ý muốn ám chỉ đến âm thanh tiếng nói và những cử điệu
của người đó. Trong trường hợp đó ta đã rà trúng điều
kiện tâm đó – là những suy tư thực tế, mục tiêu và tình
cảm hiện hữu ngay sát na đó. Nói cách khác, ta thấy rõ qua
cái bề nổi, mà đôi khi có thể trở thành đồ ngụy trang
ý nghĩa và mục tiêu thực sự người nói có trong tâm. Tâm
người nghe có khả năng không thể bị lừa dối, phỉnh gạt
hay thôi miên để tin vào những gì được diễn tả qua lời
nói và hành động. Tâm được phú cho khả năng quan hệ tâm
với trí giác tức là phương pháp trực tiếp và không thể
nhầm lẫn được. Tuy nhiên cần phải đạt đến độ phát
triển tâm cao độ trước khi một người có thể làm được
điều đó. Tuy nhiên khả năng, hay đúng hơn là sự thật hiện
thực vẫn còn đó và bất kỳ điều gì một người nào đó
có thể thực hiện được thì không có lý do gì một người
khác lại không thể làm được, chỉ cần người đó có đủ
can đảm để chấp nhận những điều kiện cần thiết.
Những
ai có khả năng Nhớ Lại Tiền Kiếp của người khác chỉ
cần người đó quyết tâm tiến thêm một bước xa hơn. Đối
với một chân lý cần nhấn mạnh chính là toàn bộ khả năng
giác quan, cho dù là thấy, nghe, ngửi, nếm và tiếp xúc, đều
tương tự như một chiếc máy thu, phải nhờ vào các thông
số rung động di chuyển tới tâm, sau đó những tín hiệu
này mới được biến đổi một lần nữa trở thành cảnh
sắc, cảnh thinh, cảnh khí, cảnh vị và cảnh xúc. Toàn bộ
những điều này được so sánh như là công việc của một
máy thu âm và một máy thu hình. Sự khác biệt chỉ hệ tại
ở tỷ lệ tần số nạp vào mỗi lần mà thôi.
Tập
hợp siêu phức tạp của Sinh Lực
Lúc
này, tâm đặc biệt là tâm hữu phần (Bhavaṇgacitta) được
gọi là tiềm thức, hay là siêu tiềm thức, lại mang đặc
tính riêng tư cá nhân của từng người một khiến họ hoàn
toàn tách biệt ra khỏi người khác. Hãy xem xét cân nhắc
hàng tỷ cá nhân trên hành tinh này và vô vàn vô số tỷ người
nơi cõi Hóa Sinh (Opapātika) (cả trong nhàn cảnh lẫn trong khổ
cảnh) ta thấy rõ ràng thật quá phức tạp. Hay là siêu phức
tạp, tập hợp sinh lực đó đối với mỗi cá nhân như thế
nào để cho họ vẫn tiếp tục tồn tại theo cách họ đã
lựa chọn để thể hiện. Để không trở thành một bản
sao chụp của bất kỳ một người nào khác, gồm có cả những
gì họ thích và ghét trong đó những điểm yếu và những
điểm mạnh, những dự trữ công đức hay những lỗi lầm
đã được tích lũy cho đến nay và vẫn còn được tích lũy
thêm nữa. Toàn bộ những điều đó đã được cung cấp thông
qua các căn vào trong tâm hữu phần (Bhavaṇgacitta). Và được
biến đổi trở thành một thức uẩn không hoạt động hay
được tích tụ trong đó. Do vậy dưới những hoàn cảnh thích
hợp và với những kích thích thích đáng, chúng có thể bung
ra thành hành động, rồi lại được biến đổi một lần
nữa xuất hiện trên bề mặt của tâm trở thành cảnh sắc,
cảnh thinh, cảnh khí, cảnh vị và cảnh xúc - Toàn bộ những
thứ đó cần được quan sát thông qua các xứ của thân. Đây
chính là ý nghĩa được thành công thức của Đức Phật gồm
trong y tương sinh như sau: “ở đâu có thức (Viññāṇa) liền
xuất hiện danh và sắc” (vật chất và danh) và hệ luận
ngược lại như sau, “Một khi xuất hiện danh và sắc thì
đồng thời thức cũng xuất hiện vậy”
Điều
này đối với suy nghĩ của một người hiện đại, hình như
vẫn còn là một thần thánh còn đối với khoa học thực
nghiệm lại giống như điều gì đó quá căng thẳng và nhấn
mạnh đến trong công thức đó. tuy nhiên, vẫn tồn tại một
liên kết nào đó giữa hai giáo lý trên. Khoảng cách không
quá rộng để không có thể vượt qua được. Một cuộc nghiên
cứu vô tư và có hệ thống do những người có tâm cởi mở
và kiên trì sớm muộn gì cũng sẽ rọi sáng lên Phép Thần
thông (Abhiññā) hay là thắng trí nơi Đức Phật để nhớ
lại tiền kiếp của cả chính mình lẫn của tha nhân. Bình
minh đang ló dạng. Tôi tin tưởng ít nhất những ai tự cho
mình là Phật tử sẽ sẵn sàng chấp nhận chân lý nơi toàn
bộ những Phép Thần thông (Abhiññā) đó, thiếu nhân tố
này Đức Phật không thể được gọi là Đấng Toàn Giác
được.
Tái
Sanh Và Tái Tử
Sinh
ra lần này cũng là tái sanh.
Cũng
giống vậy tử là tái tử.
Đã
có lần trót làm kiếp sinh linh
là
nơi ta cuối cùng trút hơi thở.
Đây
bằng chứng nghiệp chướng kẻ sống sót
Nhớ
lại được tiền kiếp thời xa xưa.
Điều
cốt lõi sống còn cho toàn Phật tử.
Nỗ
lực phi thường sức bật cho chúng sanh.
Làm
lành lánh dữ cần nắm chắc.
Ngay
cả khi không thấy, không biết cũng không nghe
Vì
đây tiếng gọi đến cơ nghiệp toàn hảo nhất.
Trên
thang nấc siêu vời vẫy gọi ta.
Đã
hiện hữu trạng thái tiền sinh kiếp
Cũng
như nơi các cõi hậu tử vong.
Sẽ
có ngày lại trở về ngụ tiếp
Giải
quyết mọi rắc rối sanh linh.
Hãy
tin tưởng Thần thông đầy phép tắc.
Biến
ta thành đầy can đảm tiến lên
Theo
bước chân Đức Phật ta tiến bước.
Đầy
can đảm hậu quả tất nhân lên.
Vì
sự sống xuất hiện tiền sinh kiếp
Còn
tồn tại tới tận hậu tử vong.
Không
chỉ có một lần ngụ liên tiếp.
Cũng
chẳng phải nơi cư ngụ cuối cùng.
Lại
một điều vô cùng yên ủi
Điều
ta làm không biến mất tiêu tan.
Khi
hướng mắt nhìn trọn niềm hạnh phúc.
Từ
hành vi tốt làm với tha nhân.
Chẳng
phải ai cũng nhớ được tiền kiếp.
Chỉ
ít người nắm chắc có khả năng.
Thể
hiện được chân lý vào phút chót.
Được
đương cử ra trước mọi người
Thành
quả công việc tốt cũng như xấu
Bồng
bềnh Bhavaṇga tâm hữu phần
Ngày
nào đó kết quả sẽ hiện rõ
Nổi
lên trên bề mặt qui trình tâm ta.
*
Wednesday, September 16, 2015
Thursday, September 10, 2015
Kinh hộ mệnh pháp môn thần chú
Kinh hộ mệnh pháp môn thần chú
Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Bạc Già Phạm ngự dưới cây Bồ Đề thành Chính Giác, ở trong Đại Chế Đa (mahà caitye : Đại Tháp) cùng với Chúng Đại Bật Sô gồm haitrăm năm mươi người đến dự. Các vị ấy tên là: Cụ Thọ Xá Lợi Tử, Cụ Thọ Đại Mục Kiền Liên, Cụ Thọ A Nan Đà .
Nhóm Đại Thanh Văn như vậy đều là bậc thượng thủ cùng với các Chúng Đại Bồ Tát đến dự. Các vị ấy tên là Kim Cương Tràng Bồ Tát, Kim Cương Tạng Bồ Tát, Kim Cương Thủ Bồ Tát, Từ Thị Bồ Tát. Nhóm như vậy đều là bậc thượng thủ của tất cả Chúng Bồ Tát Ma Ha Tát ở trong đời Hiền Kiếp.
Bấy giờ Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát (Vajrapàni Bodisatvàya mahàsatvàya) bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nguyện xin Đức Ứng Chính Đẳng Giác vì các Hữu Tình nói Pháp Môn vi diệu ủng hộ Thọ Mệnh. Do Pháp Môn này cho tất cả Hữu Tình làm đại quang minh, làm che giúp lớn (đại phúc hộ) khiến cho Hữu Tình ấy được sự khôngsợ hãi tất cả oán thù, các tri thức ác. Hoặc Trời, hoặc Dược Xoa, hoặc La Sát, hoặc Bộ Đa Quỷ với hàng Cưu Bàn Trà, Người, Phi Nhân … nhóm ấy rốt cuộc chẳng thể khởi tâm ác để gây nhiễu loạn , cướp đoạt tinh khí của người ấy. Nếu gặp đao kiếm, ăn uống thuốc độc, các nạn yểm đảo… thì chẳng thể gây hại. Nếu có chúng sinh đi, đứng, ngồi, nằm , ngủ mê say cùng với tỉnh giác… ở tất cả nơi, con hay thủ hộ. Nguyện xin Đức Thế Tôn vì lợi ích cho tất cả các Hữu Tình mà diễn nói ,mọi loại Thần Chú như vậy.
Như con thường gần gũi ở chỗ Như Lai, thừa sự luôn chẳng buông lìa. Ở tất cả thời vì nghĩa lợi, vì an vui, vì nhiêu ích cho nên nay con khuyến thỉnh Đức Như Lai cho tất cả các kẻ trai lành, người nữ thiện trụ Bồ Tát Thừa. Đừng khiến cho đấu tranh, chửu bới, hủy nhục, rình mò, tâm ôm ấp oán kết với các bệnh khổ, chết yểu chẳng đúng thời” Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát thỉnh như vậy xong thời Đức Bạc Già Phạm bảo Kim Cương Thủ Bồ Tát rằng:”Lành thay ! Lành thay Thiện Nam Tử ! Ông vì lợi íchcho các Hữu Tình nên khuyến thỉnh Như Lai. Nay ông hãy lắng nghe ! Hãy khéo nghĩ nhớ ! Nay Ta vì ông diễn nói Pháp Môn Hộ Mệnh tên là Thiện Môn
Đát điệt tha: Ổ câu (1) mãng câu (2) ổ câu ma bỉ ni (3) bạn đả nễ (4) bà la giả ma nễ (5) bà hổ lê, bà hổ lê (6) suy hổ (7) hổ hổ lê (8) bạt hiệt gia (9) toa ha (10)
TADYATHÀ: UKU MUKU UKU-MALINI BANDHANI BALA-CAMANI_ BAHULI BAHULI _ BAHU HUHULI-VARTAYA SVÀHÀ
Khi ấy Đức Như Lai nói Quán Đỉnh Đà La Ni Chú nay xong. Lúc đó Đức Thế Tôn lại nói Chư Phật Chi Sở Hộ Niệm Đà La Ni Chú Trường Thọ Pháp Môn
Đát điệt tha: bạt chiết lê, bạt chiết lê (1) bạt chiết la đả lê (2) bạt chiết la bà để (3) bạt chiết la bách đế (4) bạt chiết la đả đế (5) chước cật la, bạt chiết lê (6) chước cật la đả lê (7) ma lê (8) đả lệ đả lê (9) tỳ lê, tỳ lê (10) mãng lê , chất lê (11) hổ hổ lê (12) bằng già tỵ tỵ lê (13) thủy lê (14) lê lê thi (15) chủ chủ lê (16) lỗ lỗ chỉ 162 (17) bà lê giả lê (18) chủ lê , mãng lê, giả lê (19) mạn trà lê (20) mạn trà nễ (21) tát bà bá bạt , tỳ na xả nễ (22) tát bà lỗ già , bát la xa mạt nễ (23) a ca la mật lý trụ, bát la để sát đả nễ (24) dạ bà trụ bà bà bôn na bôn la đế, sát đả nễ (25)
TADYATHÀ : VAJRI VAJRI VAJRA-DHÀRI_ VAJRA-PÀNI _ VAJRA-PATI _ VAJRA-DHATI _ CAJRA-VAJRI _ CAKRA-DHÀRI _ MÀRI TÀRE TÀRE _ BHIRI
BHIRI _ MÀRE CIRI _VARI CALE _ CURI MURI CARE _BANDARE BANDARE _ SARVA-PÀPAM VINÀ’SANI _ SARVA-UKA PRA’SAMANI _AKALA-MRTYU
PRATI’SODHANI _ YAVA DUHSVAPNA MURATI ‘SODHANI
Đát điệt tha: mạn trà nễ (1) già già la ni (2) mô trà nễ (3) tam bát la mô trà nễ (4) na xả nễ (5) tam bát la na xả nễ (6) tát bà tỳ đế, bát la xả mạt nễ (7) dạ bà đỗ sa bà bôn na, a ca la mật lý trụ , bát la để sát đả nễ (8)
TADYATHÀ: BANDHANI _ GAGARINI _ MUJANI _ SAMPRAMUDHANI NA’SANI _ SARVA-VYADHI PRA’SAMANI _ YAVA DUHSVAPNA AKALA-MRTYU PRATI’SODHANI
Đát điệt tha: xả nễ (1) na xả nễ (2) bạn đả nễ, bạn đả nễ (3) sân đà, sân đà (4) Tỵ lê nhĩ lê (5) sa lê (6) ha đát nê (7) bạt lê (8) bà lê bà lê (9) tỳ đế (10) tỳ lê tỳ lê tỳ lê (11) ô sa lê (12) xa la nê (13) bà la bà lỗ nê (14) bà la ca trà duệ (15) bà la hát ma già lý ni (16) nhật đạt la bà để (17) địa địa la dã ni (18) nạp mộ mạc hế thấp phiệt la, la duệ nễ (19) hột lợi sư bà xã nỉ (20) bá bả đồ khiếm nễ (21) ca la bà địa nễ (22) bộ đa bà địa nễ (23) tát đa yết đệ (24) tố ma bạt đê (25) tố ma bôn la tỳ (26) toa ha (27)
TADYATHÀ: NA’SANI NA’SANI _BANDHANI BANDHANI _ CCHINDA CCHINDA _ CIRI MIRI _ MAHE-HADANI _ VIRE VARE VARE _VIRI VIRI VIRE _ SUSANI _ ‘SARANI _ VARU VARINI _ VARAHÙYE _ BRAHMA-CÀRINI _ INDRA-VATI _ DHIDHIRIYANI _ NAMO MAHE’SVARAYANI _ RSÌ BHAYANI _ BHAVA JAHANI _ KALAPATINI _ BHUTÀDHIPATI SATYA-GÀTHE _ SOMA-VATI _ SOMA-PRABHE SVÀHÀ
Đãn điệt tha: hát la, hát la (1) hứ lê (2) toa ha (3)
TADYATHÀ: HARA HARA _ HILI SVÀHÀ
Đát điệt tha: yết trĩ đa(1) bát trĩ đa (2) a duệ na (3) a lê thiềm bạt nê (4) ế ca yết đả nê (5) bổ đa la trà hát nễ (6) mạt già tỳ lô hát nễ (7) hổ sa bạt để (8) hổ sa bạt để (9) bổ sa bạt để (10) bổ sa bạt để (11) hứ lê hứ lê (12) dã tha đồ gia (13) dã tha, a kỳ nễ (14) dã tha bát lam giả (15) dã tha bạt giam (16) dã tha bạt chiết lam (17) dã tha ha lý đả giam (18)
TADYATHÀ: ADITA PADITA _ AYENA ARI-BHAMJANI _ EKA-KARDANI _ PUTRA-DAHANI MARGA ABHIROHANI _ HUSA-VATI HUSA-VATI _ PUSA-
PATI _ HILI HILI _ YATHÀ VAJRAYA _YATHÀ AGNI _ YATHÀ PARANACA _ YATHÀ NÀYA _ YATHÀ VAJRAM _ YATHÀ HRDAYAM SVÀHÀ
Đức Phật bảo Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát:”Hộ Mệnh Thiện Môn Đà La Ni Thần Chú này trước đây đã được Đấng Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác ở đời quá khứ diễn nói , đã thủ hộ , phát Thệ Nguyện lớn, chân thật kiến lập. Nay Ta cũng vì lợi ích thương xót tất cả Hữu Tình , phát Thệ Nguyện lớn, chân thật kiến lập cho nên nói Đà La Ni Chú này”
Bấy giờ Đức Bạc Già Phạm phóng ánh sáng từ chặn mày (Tam Tinh) của tướng Đại Nhân . Anh sáng ấy chiếu diệu khắp các quốc độ của Phật . Do Thần Biến của Đức Phật nên tất cả Như Lai trong các quốc độ đều thấy ánh sáng này, đều từ quốc độ của mình cùng thời phát hướng về Thế Giới Tác Ha đến nơi Đức Thích Ca Mâu Ni Phật đang ngự, khen rằng:”Lành thay ! Lành thay ! Thích Ca Mâu Ni Phật liền hay vì lợi ích, ủng hộ cho tất cả các Hữu Tình nên nói Pháp Môn Đà La Ni Chú này, hay tác ánh sáng khiến được vui vẻ khiến được Chính Niệm. Chính vì thế cho nên nay Ta xưng dương tán thán” Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện vào buổi sáng sớm thọ trì, đọc tụng Cú Nghĩa của Đà La Ni Thần Chú này sẽ được 20 thứ Công Đức
Một là sẽ được chư Phật nhiếp thọ
Hai là thường được chư Phật nghĩ nhớ đến
Ba là sẽ được lìa hẳn sự chịu nghiệp trong nẻo ác
Bốn là sẽ được sống lâu, phú quý
Năm là sẽ được danh tiếng vang xa
Sáu là sẽ được uy lực dũng mãnh
Bảy là luôn thường không có bệnh, lại hay tinh tiến
Tám là thường được chư Phật che giúp
Chín là lại được chư Thiên nghĩ nhớ đến
Mười là siêng năng tu hạnh lành
Mười một là sẽ được ánh sáng, vui vẻ, chính niệm
Mười hai là sẽ được đầy đủ các tướng
Mười ba là được vô sở úy
Mười bốn là sẽ được đầy đủ Thi La (‘Sìla: Thanh Lương Giới)
Mười lăm là sẽ được thành tựu tất cả căn lành
Mười sáu là sẽ được chư Thiên thủ hộ
Mười bảy là sẽ được các Rồng thủ hộ
Mười tám là sẽ được Dược Xoa thủ hộ
Mười chín là sẽ được tất cả Thế Gian kính yêu
Hai mươi là mau chóng được A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề (Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác)
Đức Phật bảo:”Này Kim Cương Thủ ! Nay Ta nói Đà La Ni Chú này tức là nơi bí mật của các Phật Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác, là nơi thủ hộ của tất cả chư Phật” Khi ấy Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nay con cũng vì ủng hộ lợi ích chocác kẻ trai lành, người nữ thiện nên nói Đà La Ni. Nếu lại có người hay thọ trì đọc tụng Hộ Mệnh Pháp Môn Đà La Ni Chú này , vào buổi sáng sớm nên khởi đọc tụng. Thế Tôn ! Con thường ủng hộ người thuộc nhóm như vậy khiến cho không có sự não hại
Đát điệt tha: Thi mang , thi mang, thi mang, thi mang (1) chỉ chỉ chỉ chỉ (2) bà bà bà bà (3) cốt lỗ lỗ lỗ lỗ (4) thị thị thị thị (5) khất la , khất la, khất la, khất la (6) kiềm lê, kiềm lê, kiềm lê, kiềm lê (7) khiếm khiếm khiếm khiếm (8) ma ma ma 164 ma (9) mạt na, mạt na (10) khiếm na, khiếm mê (11) tát bà bát la đa lật thể ca (12) đả ha, đả ha mê (13) tát bà thiết đát lạt bà (14) bát già, bát già mê (15) tát bà a hứ đái sử noa (16) toa ha (17)
TADYATHÀ: ‘SIKHI ‘SIKHI ‘SIKHI ‘SIKHI _ CI CI CI CI _ BHA BHA BHA BHA _ RU RU RU RU _ JI JI JI JI _ GRA GRA GRA GRA _ HRI HRI HRI HRI _ HA HA HA HA _ MAMA MAMA _ MANA MANA _ HANA HANA ME _ SARVA PRATYARTHIKÀ _ DAHA DAHA ME _ SARVA ‘SATRABA _ PACA PACA ME _ SARVA AHITE’SINA SVÀHÀ
Lúc đó Đức Bạc Già Phạm khen Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát rằng:”Lành thay ! Lành thay Thiện Nam Tử ! Nay ông nói Đà La Ni Thần Chú này thành tựu tối thắng, có nghĩa lợi lón. Ta cũng vì che giúp các Hữu Tình cho nên ở trong tất cả lỗ chân lông ấy ban cho uy quang khiến được an vui”
Bấy giờ Tác Ha Thế Giới Chủ Phạm Thiên Vương (Sahampati Brahma Devaràja) liền từ chỗ ngồi đứng dậy hướng Phật chắp tay cung kính rồi bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nay con cũng vì lợi ích thủ hộ cho các kẻ trai lành, người nữ thiện nên nói Đà La Ni Thần Chú
Đát điệt tha: hứ lê (1) nhĩ lê (2) chỉ lê (3) toa ha (4) bột la hắc ma bổ lê (5) toa ha (6) bột la hắc ma sa phộc lê (7) toa ha (8) bột la hắc ma bệ (9) tô yết bệ (10) bố sáp ba tăng sa hiệt lê (11) toa ha (12)
TADYATHÀ: HILI MILI CILI SVÀHÀ _ BRAHMA PURE SVÀHÀ _ BRAHMA SVÀRE SVÀHÀ _ BRAHMA AVASU-GARBHE PU’SPA-SAMSTARE SVÀHÀ
Thế Tôn ! Câu Thần Chú này muốn vì ủng hộ lợi ích cho các kẻ trai lành với người nữ thiện. Vào buổi sáng sớm nên khởi đọc tụng
Khi ấy Thiên Đế Thích (Indra Devaràja) bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nay con cũng vì ủng hộ lợi ích cho các kẻ trai lành với người nữ thiện . Nguyện xin Đức Như Lai rũ
thương hộ niệm, nên nói Đà La Ni. Nếu lại có người hay thọ trì Hộ Mệnh Thiện Môn này thì vào lúc sáng sớm thời ghi nhớ đọc tụng
Đát điệt tha: Tỳ nễ ba la ni (1) đạn trà ma hiệt trà (2) chỉ chi chi nễ (3) cụ lê kiền đà lê (4) tát la ma ha nễ bạt chiết lam (5) đa lỗ ni (6) trú la ma lý nễ (7) chước cật la bà kê (8) xả bà lê (9) xả ma lê (10) bát la ma la đê (11) khiếm na ma ham đa la ni (12) thiêm bạt lê (13) toa ha (14)
TADYATHÀ: VINI-PARANI _DANTUMARANTE _ TITTE TITTE _ GAURI GANDHARI _ SARAMATANITA-VAJRA _TULENA _ JVALA-MALINI _ CAKRA-VÀKE _ ‘SABARE ‘SAMARE _ PRAMARDE _ HANA-MUKHE DHARANI _ ‘SAMVARE SVÀHÀ
Lúc ấy Đa Văn Thiên Vương , Trì Quốc Thiên Vương, Tăng Trưởng Thiên Vương, Xú Mục Thiên Vương chắp tay cung kính bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Chúng con cũng vì ủng hộ lợi ích cho các kẻ trai lành với người nữ thiện, nói Đà La Ni Thần Chú. Nếu lại có người hay thọ trì Hộ Mệnh Pháp Môn này vào lúc sáng sớm thời nên khởi đọc tụng.
Đát điệt tha: Bổ sáp-bệ (1) tô bổ sáp-bệ (2) đỗ ma bả lê ha lê (3) a lật gia bát la xả tất đê (4) phiến đê (5) nễ lật mục cật đê (6) măng già lệ (7) hứ la ni yết tỳ (8) tốt đổ đê (9) sa đa tỳ đê (10) toa ha (11)
TADYATHÀ: PUSPE _ SUPUSPE _ DHUMA-PARIHÀRE _ ÀRYA-PRA’SASTE ‘SÀNTI _ NIRMUKTE _ MAMGALE _ HIRANYA-GARBHE _ STUTI- STAVATI SVÀHÀ
Bấy giờ Quỷ Tử Mẫu Ha Lý Để bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nay con cũng vì ủng hộ lợi ích cho các kẻ trai lành với người nữ thiện nên nói Đà La Ni. Nếu lại có người hay thọ trì Hộ Mệnh Thần Chú Thiện Môn Đà La Ni này thì vào lúc sáng sớm nên khởi đọc tụng
Đa điệt tha: tất lê (1) tư tất lê (2) tất lê (3) tư tất lê (4) tất lê (5) ma ha tỳ tất lê (6) tất nhĩ lý tư (7) quật lỗ nê (8) quật lỗ nê (9) quật lỗ nê (10) ma ha quật lỗ nê phổ (11) toa ha (12)
TADYATHÀ:SILI ‘SISILI _ SILI ‘SISILI _ MAHÀBHISILI _ SIME LISE _ GURUNI GURUNI GURUNI _ MAHÀ-GURUNIPHU SVÀHÀ
Khi ấy Ngũ Đại Sơn Dược Xoa Quân Tướng chắp tay cung kính bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nay con cũng vì ủng hộ lợi ích cho các kẻ trai lành, người nữ thiện nên nói Đà La Ni Thần Chú. Nếu lại có người hay thọ trì Hộ Mệnh Thần Chú Pháp Môn Đà La Ni này thì vào lúc sáng sớm nên khởi đọc tụng
Đát điệt tha: At xỉ phổ (1) bạt xỉ phổ (2) suy xỉ phổ (3) củ suy xỉ phổ (4) ma suy xỉ phổ (5) hạt la môn trà khiếm đê phổ (6) thất lê phổ (7) bằng kỳ phổ (8) ma giả lê phổ (9) toa ha (10)
TADYATHÀ:ATTEPHU _ PATTEPHU_ NATTEPHU_ GUNATTEPHU _ MANATTEPHU _ HARAMUNTA HATAPHU _ _ ‘SRIPHU _ BHAMGEBHU _ MAMGALEPHU SVÀHÀ
Lúc ấy Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nay con cũng vì ủng hộ lợi ích cho các kẻ trai lành, người nữ thiện nên xót thương nhiếp thọ đều
khiến cho an ổn được các việc tốt lành. Con sẽ kết Giới khiến cho lìa dao, gậy, tiêu các ác độc. Nếu lại có người hay thọ trì Hộ Mệnh Pháp Môn này thì vào lúc sáng sớm nên khởi đọc tụng
Đát điệt tha: Hát lý bạt chiết lê (1) hát lý bạt chiết lê (2) hứ hứ hứ hứ (3) tỳ (4) tỳ tư (5) ma hà tỳ tư phổ (6) toa ha (7)
TADYATHÀ: HÀRE VAJRA _ HÀRE VAJRA _ HIHI HIHI _ BHISI BHISI _ MAHÀ-BHISIPHU SVÀHÀ
Bấy giờ Đại Tự Tại Thiên Chủ (Mahe’svara Devapati) chắp tay cung kính bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nay con cũng vì ủng hộ lợi ích cho các kẻ trai lành, người nữ 166 thiện nên nói Đà La Ni Thần Chú. Nếu lại có người hay thọ trì Hộ Mệnh Thiện Môn này thì vào lúc sáng sớm nên khởi đọc tụng
Đát điệt tha: hổ lô , hổ lô, hổ lô, hổ lô (1) lỗ lỗ lỗ lỗ lỗ lỗ (2) tát bà bộ đa bôn la để sát đả nam ca lộ nhĩ (3) toa ha (4)
TADYATHÀ:HULU HULU HULU HULU _ LULU LULU LULU _ SARVA-BHUTA PRATI-SÀDHANAM KARA-UMI SVÀHÀ
Khi ấy Đồng Tử Quân Tướng hướng Phật chắp tay cung kính rồi đứng thẳng bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nay con cũng vì ủng hộ lợi ích cho các kẻ trai lành, người nữthiện nên nói Đà La Ni. Nếu lại có người hay thọ trì Hộ Mệnh Thần Chú Đà La Ni Pháp Môn này thì vào lúc sáng sớm, thanh khiết thân của mình rồi nên khởi đọc tụng
Đát điệt tha: hứ lê (1) hứ lê (2) hứ lê (3) lê (4) lê (5) lê (6) lê (7) lê (8) lê (9) tát bà bộ đa bôn la để sát tha nam, ca lộ nhĩ (10) toa ha (11)
TADYATHÀ: HILI HILI HILI _ LILI LILI LILI _ SARVA-BHUTA PRATI- SÀDHANAM KARA-UMI SVÀHÀ
Lúc đó Nguyệt Quang Thiên Tử (Candraprabha Devaputra) chắp tay cung kính bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nay con cũng vì ủng hộ lợi ích cho các kẻ trai lành, người nữ thiện nên nói Đà La Ni. Nếu lại có người hay thọ trì Hộ Mệnh Pháp Môn Đà La Ni Thần Chú này thì vào lúc sáng sớm nên khởi đọc tụng
Đát điệt tha: ứng kỳ kỳ (1) bằng kỳ (2) chướng kỳ (3) hứ nễ (4) địa địa (5) địa địa (6) chỉ chỉ phổ (7) toa ha (8)
TADYATHÀ:AMGE _ BHAMGE _ CAMGE _ HINI _ DHIDHI DHIDHI _ CICIPHU SVÀHÀ
Bấy giờ Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát bạch Phật rằng:’Thế Tôn ! Nay con cũng vì ủng hộ lợi ích cho các kẻ trai lành, người nữ thiện nên nói Đà La Ni. Nếu lại có người hay thọ trì Hộ Mệnh Pháp Môn này thì vào lúc sáng sớm nên khởi đọc tụng
Đát điệt tha: khiếm đê (1) tỳ khiếm đê (2) nễ khiếm đê (3) tô khiếm đê (4) tát bà bôn la đa lật thể kê (5) bôn la đa nhĩ đát lê (6) du đế (7) mục cật đê (8) tỳ ma lê (9) niết ma lê (10) bôn la bà sa lê (11) bôn la bà ca lê (12) bôn la bà ca lê phổ (13) toa ha (14)
TADYATHÀ: HATE VIHATE NIHATE SUHATE _ SARVA-PRATYÀRIKÀ _ PRATYA-MITRA-‘SUDDHE _ MUKTE _ VIMALE NIRMALE _ PRABHA-SVÀRE _ PRABHA-KARE _ PRABHA-KAREPHU SVÀHÀ
Khi ấy Từ Thị Bồ Tát bạch Phật rằng:’Thế Tôn ! Nay con cũng vì ủng hộ lợi ích cho các kẻ trai lành, người nữ thiện nên nói Đà La Ni. Nếu lại có người hay thọ trì Hộ Mệnh Pháp Môn này thì vào lúc sáng sớm nên khởi đọc tụng
Ðát điệt tha: thập phiệt lê (1) thập phiệt lê (2) ma ha thập phiệt lê (3) thập phiệt lê (4) thập phiệt lý nễ (5) ổ cật đê (6) mục cật đê (7) thiểm mê (8) bôn la thiểm mê (9) ma ha thiểm mê (10) thiểm nhĩ (11) tam ma đề (12) ma ha tam ma đề (13) tam ma bát đê (14) ma ha tam ma bát đê (15) thập phiệt lê (16) ma ha thập phiệt lê (17) thập phiệt lam bà mê phổ (18) toa ha (19)
TADYATHÀ: JVALE JVALE _ MAHÀ-JVALA _ JVALE JVALINI _ UKKE MUKKE _’SAME PRA’SAME MAHÀ-‘SAME _ ‘SAME _ SAMÀDHI MAHÀ-SAMÀDHI _ SAMÀPATTI MAHÀ- SAMÀPATTI _ JVALE MAHÀ-JVALE _ JVALAPAMEPHU SVÀHÀ
Lúc đó Tuyết Sơn Đại Dược Xoa Quân Tướng chắp tay cung kính rồi bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nay con cũng vì ủng hộ lợi ích cho các kẻ trai lành, người nữ thiện nên nói Đà La Ni Thần Chú . Nếu lại có người hay thọ trì Hộ Mệnh Pháp Môn này thì vào lúc sáng sớm nên khởi đọc tụng
Đát điệt tha: ổ thiền bà lê (1) thiền bà lê (2) bôn la thiền bà lê (3) tỳ bạt đê (4) mãng suy duệ (5) tam ma đề (6) ma ha tam ma đề (7) tam ma bát đê (8) ma ha tam ma bát đê (9) nễ lê (10) nễ lê (11) nễ la kế thế (12) kế thủy nễ (13) củ lệ (14) củ lệ (15) ma ha củ lệ (16) nễ la củ lệ (17) tất đề (18) tất đà ma nộ la thê (19) át xỉ (20) bạt xỉ (21) suy xỉ (22) câu suy xỉ (23) tam mạn đê (24) bà la củ chế (25) đạn đê (26) nễ la kế thế (27) củ lệ (28) ma ha củ lệ (29) ni la kiến đê (30) thường cụ lê (31) hổ thế (32) mưu hổ thế (33) bà la thường cụ lê (34) phả la củ chế (35) phả la muộn chế phổ (36) toa ha (37)
TADYATHÀ: UDUMBARE _ DUMBARE _ PRADUMBARE _ VYÀBARDE _ ÀNGHE _ SAMÀDHI MAHÀ-SAMÀDHI _ SAMÀPATTI MAHÀ-SAMÀPATTI _ NÌLE NÌLE _ NÌLAKE’SE _ KE’SENI _ KULE KULE MAHÀ-KULE _ NÌLA-KULE _ SIDDHI _ SIDDHA-MANORATHE _ ATTE PATTE NATTE _ SAMANTA-BHAVA KU’SE _ DÀNTE NÌLA-KE’SE _ KULE MAHÀ-KULE _ NÌLAKANTHE _ JAMKULE _ HU’SE MÙHU’SE PRAJAMKULE _ PRAKUTI PRAMUNTIPHU SVÀHÀ
Bấy giờ Thất Sơn Đại Dược Xoa Quân Tướng chắp tay cung kính bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nay con cũng vì ủng hộ lợi ích cho các kẻ trai lành, người nữ thiện nên nói Đà La Ni. Nếu lại có người hay thọ trì Hộ Mệnh Pháp Môn Đà La Ni Chú này thì vào lúc sáng sớm nên khởi đọc tụng
Đát điệt tha: A ma lê (1) tỳ ma lê (2) nễ ma lê (3) măng già lệ (4) hứ la nhược yết tỳ (5) tát bà a lạt tha, sa đả nễ (6) ma ca thất giả nễ (7) dữu cật đê (8) Tỳ la thệ (9) yết xỉ (10) kế chu kiếm bà lê (11) bột la hát mê (12) bột la hát ma sa phộc lê (13) bột la hát ma tất đề (14) tất đà ma nộ la thế phổ (15) toa ha (16)
TADYATHÀ: AMALE VIMALE NIRMALE MAMGALE _ HIRANYA-GARBHE _ SARVA-ARTHA SÀDHANE _ KAMA’SCINI-YUKTE _ VIRAJE _ KUTA KUTA _ KAMA-BALE _ BRAHME BRAHMA-SVÀRE _ BRAHMA SIDDHE _ SIDDHA MANORATHE PHU SVÀHÀ
Khi ấy Kim Cương Thương Yết La Đại Thiên Nữ chắp tay cung kính bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nay con cũng vì ủng hộ lợi ích, thương xót nhiếp thọ các kẻ trai lành với người nữ thiện mà nói câu Đà La Ni đều khiến cho an ổn được các việc tốt lành. 168 Nếu lại có người hay thọ trì Pháp Môn Hộ Mệnh Thần Chú này thì vào lúc sáng sớm nên khởi đọc tụng.
Đát điệt tha: bạt chiết lệ (1) bạt chiết la (2) bạt chiết lệ (3) ma ha bạt chiết lệ (4) bạt chiết la ma đê (5) bột đà bạt chiết lệ (6) bột đà a địa sắt xỉ đa, bạt chiết lệ (7) ô bột đề (8) nễ bột đề (9) tam bột đề (10) bà hổ bột đề (11) tỳ thủy sắt tra, bột đề (15) bột đề (16) bột đề (17) đề thắng già nhĩ nễ (18) thiềm già mê (19) a la mê (20) để la mê (21) để lê (22) để lê (23) để lê (24) mạt kỳ (25) ma khiện đa già nhĩ nê phổ (26) toa ha (27)
TADYATHÀ: VAJRE VAJRA _ VAJRE MAHÀ-VAJRE_ VAJRA-MATI _ BUDDHA-VAJRE _ BUDDHA ADHISTHITA VAJRE _ SUBUDDHE NIBUDDHE SAMBUDDHE _ BAHU-BUDDHE _ VI’SISTA-BUDDHE _ BUDDHE BUDDHE _ NISAMGRA-MANI _ SAMGRA ME _ ALA ME _ TILA ME _ TILI TILI TILI _ MARGE ‘SÀNTE GÀMINI PHU SVÀHÀ
Lúc đó Kim Cương Quân Bồ Tát Ma Ha Tát chắp tay cung kính bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nay con cũng vì ủng hộ lợi ích cho các kẻ trai lành, người nữ thiện nên nói câu Đà La Ni. Nếu lại có người hay thọ trì Hộ Mệnh Thần Chú Pháp Môn Đà La Ni này thì vào lúc sáng sớm nên khởi đọc tụng
Đát điệt tha: hứ hứ , bạt chiết la (1) hứ hứ bạt chiết la (2) hề hề bạt chiết la (3) dã bà chỉ lợi chỉ lợi , bạt chiết la (4) toa ha (5)
TADYATHÀ: HIHI VAJRE _ HIHI VAJRA _ HIHI VAJRA _ YAVA KIRI KIRI VAJRA SVÀHÀ
Đát điệt tha: An trà lê (1) bát trà lê (2) thất phệ đê (3) bát trà la bà tư nễ (4) khẩn suy lệ (5) ca la trà (6) kê dữu lệ (7) y khiếm bột đề (8) đát đa la bột đề (9) bộ thệ (10) bộ chiêm già mê (11) bộ chiêm già mê (12) bộ chiêm già bạt để (13) bà duệ (14) bà dạng kỳ (15) bà dã khất la bạt đê (16) tỵ nễ (18) thủy lê (19) bả thê (20) thi ma bả thê (21) a địa đa bả thê (22) đế thệ (23) đế thệ bả thê (24) a ca xa bả thê phổ (25) toa ha (26)
TADYATHÀ: ANDARE PANDARE _ ‘SVETE-PANDARA-VASINI _ KINNARE KARÀTE _ KEYURE _ IHÀ-BUDDHE _ TADVA-BUDDHE _ BHUJE BHUJAMO GAME _ BHUJAM-GAMA-PATI _ BHAYE BHAYÀMGE _ BHAYAM-GARA-PATI _ VINÌ-‘SRÌ-PATI _ ‘SIMA-PATI _ ÀDITYA-PRATHE _ TEJE TEJE-VATI _ ÀKÀ’SA-PATI PHU SVÀHÀ
Bấy giờ Kim Cương Sứ Giả chắp tay cung kính bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nay con cũng vì ủng hộ lợi ích cho các kẻ trai lành với người nữ thiện đều khiến tiêu diệt hết thảy các chướng. Nếu lại có người hay thọ trì Hộ Mệnh Pháp Môn Đà La Ni Thần Chú này thì vào lúc sáng sớm nên khởi đọc tụng
Đát điệt tha: củ xỉ (1) củ xỉ (2) củ trưng nễ (3) củ tra , củ tra lệ (4) toa ha (5) _ Nễ lê (6) nễ lê (7) nễ la kế thế (8) toa ha (9)_ Tý đê (10) tý đa (11) tý đa kế thế (12) toa ha(13) _ Lô hứ đê (14) lô hứ đê (15) lô hứ đa kế thế (16) toa ha (17) _ A bà đả đê (18) a bà đả đê (19) a bà đả đa kế thế (20) toa ha (21) _ Mạn thị sắt xỉ (22) mạn thị 169 sắt xỉ (23) mạn thị sắt tra kế thế (24) toa ha (25) _ Chước cật lệ (26) chước cật lệ (27) chước cật la (28) chước cật lệ (29) bạt chiết la, chước cật lệ (30) toa ha (31)
TADYATHÀ: KUTE KUTE KUTENI _ KUTA KUTARE SVÀHÀ _ NÌLE NÌLE NÌLAKE’SE SVÀHÀ _ PRITE PRITA PRITAKE’SE SVÀHÀ _ LOHITE LOHITE LOHITA-KE’SE SVÀHÀ _ AVADÀDE AVADÀDE AVADÀDA-KE’SE SVÀHÀ _ MANJISTHE MANJISTHE MANJISTHA-KE’SE SVÀHÀ _ CAKRE CAKRE _ CAKRA CAKRE _ VAJRA-CAKRE SVÀHÀ
Khi ấy Đức Bạc Già Phạm Thích Ca Mâu Ni Phật liền duỗi bàn tay phải , cánh tay màu vàng ròng khen nhóm Thích, Phạm, bốn vị Thiên Vương rằng:”Lành thay ! Lành thay ! Chư Thiên các ông thương xót thủ hộ tất cả Hữu Tình. Ta dùng uy thần ủng hộ cho ông nói Đà La Ni Chú này” Lúc đó Đức Bạc Già Phạm lại bảo Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát rằng:”Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện hay thọ trì Hộ Mệnh Pháp Môn Đà La Ni Thần Chú này thì vào lúc sáng sớm nên thọ trì đọc tụng, ắt người đó sẽ được sự ủng hộ của tất cả chư Phật với các Bồ Tát cho đến tất cả hàng Trời, Rồng Dược Xoa, A Tố Lạc, Yết Lộ Trà, Khẩn Nại Lạc, Mạc Hô Lạc Già ủng hộ. Khi Đức Bạc Già Phạm nói Kinh này xong thời Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát với hàng Thích , Phạm, Hộ Thế, Trời, Người, A Tố Lạc, Kiền Thát Phộc…, tất cả Đại Hội nghe điều Phật nói đều vui vẻ phụng hành
Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Bạc Già Phạm ngự dưới cây Bồ Đề thành Chính Giác, ở trong Đại Chế Đa (mahà caitye : Đại Tháp) cùng với Chúng Đại Bật Sô gồm haitrăm năm mươi người đến dự. Các vị ấy tên là: Cụ Thọ Xá Lợi Tử, Cụ Thọ Đại Mục Kiền Liên, Cụ Thọ A Nan Đà .
Nhóm Đại Thanh Văn như vậy đều là bậc thượng thủ cùng với các Chúng Đại Bồ Tát đến dự. Các vị ấy tên là Kim Cương Tràng Bồ Tát, Kim Cương Tạng Bồ Tát, Kim Cương Thủ Bồ Tát, Từ Thị Bồ Tát. Nhóm như vậy đều là bậc thượng thủ của tất cả Chúng Bồ Tát Ma Ha Tát ở trong đời Hiền Kiếp.
Bấy giờ Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát (Vajrapàni Bodisatvàya mahàsatvàya) bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nguyện xin Đức Ứng Chính Đẳng Giác vì các Hữu Tình nói Pháp Môn vi diệu ủng hộ Thọ Mệnh. Do Pháp Môn này cho tất cả Hữu Tình làm đại quang minh, làm che giúp lớn (đại phúc hộ) khiến cho Hữu Tình ấy được sự khôngsợ hãi tất cả oán thù, các tri thức ác. Hoặc Trời, hoặc Dược Xoa, hoặc La Sát, hoặc Bộ Đa Quỷ với hàng Cưu Bàn Trà, Người, Phi Nhân … nhóm ấy rốt cuộc chẳng thể khởi tâm ác để gây nhiễu loạn , cướp đoạt tinh khí của người ấy. Nếu gặp đao kiếm, ăn uống thuốc độc, các nạn yểm đảo… thì chẳng thể gây hại. Nếu có chúng sinh đi, đứng, ngồi, nằm , ngủ mê say cùng với tỉnh giác… ở tất cả nơi, con hay thủ hộ. Nguyện xin Đức Thế Tôn vì lợi ích cho tất cả các Hữu Tình mà diễn nói ,mọi loại Thần Chú như vậy.
Như con thường gần gũi ở chỗ Như Lai, thừa sự luôn chẳng buông lìa. Ở tất cả thời vì nghĩa lợi, vì an vui, vì nhiêu ích cho nên nay con khuyến thỉnh Đức Như Lai cho tất cả các kẻ trai lành, người nữ thiện trụ Bồ Tát Thừa. Đừng khiến cho đấu tranh, chửu bới, hủy nhục, rình mò, tâm ôm ấp oán kết với các bệnh khổ, chết yểu chẳng đúng thời” Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát thỉnh như vậy xong thời Đức Bạc Già Phạm bảo Kim Cương Thủ Bồ Tát rằng:”Lành thay ! Lành thay Thiện Nam Tử ! Ông vì lợi íchcho các Hữu Tình nên khuyến thỉnh Như Lai. Nay ông hãy lắng nghe ! Hãy khéo nghĩ nhớ ! Nay Ta vì ông diễn nói Pháp Môn Hộ Mệnh tên là Thiện Môn
Đát điệt tha: Ổ câu (1) mãng câu (2) ổ câu ma bỉ ni (3) bạn đả nễ (4) bà la giả ma nễ (5) bà hổ lê, bà hổ lê (6) suy hổ (7) hổ hổ lê (8) bạt hiệt gia (9) toa ha (10)
TADYATHÀ: UKU MUKU UKU-MALINI BANDHANI BALA-CAMANI_ BAHULI BAHULI _ BAHU HUHULI-VARTAYA SVÀHÀ
Khi ấy Đức Như Lai nói Quán Đỉnh Đà La Ni Chú nay xong. Lúc đó Đức Thế Tôn lại nói Chư Phật Chi Sở Hộ Niệm Đà La Ni Chú Trường Thọ Pháp Môn
Đát điệt tha: bạt chiết lê, bạt chiết lê (1) bạt chiết la đả lê (2) bạt chiết la bà để (3) bạt chiết la bách đế (4) bạt chiết la đả đế (5) chước cật la, bạt chiết lê (6) chước cật la đả lê (7) ma lê (8) đả lệ đả lê (9) tỳ lê, tỳ lê (10) mãng lê , chất lê (11) hổ hổ lê (12) bằng già tỵ tỵ lê (13) thủy lê (14) lê lê thi (15) chủ chủ lê (16) lỗ lỗ chỉ 162 (17) bà lê giả lê (18) chủ lê , mãng lê, giả lê (19) mạn trà lê (20) mạn trà nễ (21) tát bà bá bạt , tỳ na xả nễ (22) tát bà lỗ già , bát la xa mạt nễ (23) a ca la mật lý trụ, bát la để sát đả nễ (24) dạ bà trụ bà bà bôn na bôn la đế, sát đả nễ (25)
TADYATHÀ : VAJRI VAJRI VAJRA-DHÀRI_ VAJRA-PÀNI _ VAJRA-PATI _ VAJRA-DHATI _ CAJRA-VAJRI _ CAKRA-DHÀRI _ MÀRI TÀRE TÀRE _ BHIRI
BHIRI _ MÀRE CIRI _VARI CALE _ CURI MURI CARE _BANDARE BANDARE _ SARVA-PÀPAM VINÀ’SANI _ SARVA-UKA PRA’SAMANI _AKALA-MRTYU
PRATI’SODHANI _ YAVA DUHSVAPNA MURATI ‘SODHANI
Đát điệt tha: mạn trà nễ (1) già già la ni (2) mô trà nễ (3) tam bát la mô trà nễ (4) na xả nễ (5) tam bát la na xả nễ (6) tát bà tỳ đế, bát la xả mạt nễ (7) dạ bà đỗ sa bà bôn na, a ca la mật lý trụ , bát la để sát đả nễ (8)
TADYATHÀ: BANDHANI _ GAGARINI _ MUJANI _ SAMPRAMUDHANI NA’SANI _ SARVA-VYADHI PRA’SAMANI _ YAVA DUHSVAPNA AKALA-MRTYU PRATI’SODHANI
Đát điệt tha: xả nễ (1) na xả nễ (2) bạn đả nễ, bạn đả nễ (3) sân đà, sân đà (4) Tỵ lê nhĩ lê (5) sa lê (6) ha đát nê (7) bạt lê (8) bà lê bà lê (9) tỳ đế (10) tỳ lê tỳ lê tỳ lê (11) ô sa lê (12) xa la nê (13) bà la bà lỗ nê (14) bà la ca trà duệ (15) bà la hát ma già lý ni (16) nhật đạt la bà để (17) địa địa la dã ni (18) nạp mộ mạc hế thấp phiệt la, la duệ nễ (19) hột lợi sư bà xã nỉ (20) bá bả đồ khiếm nễ (21) ca la bà địa nễ (22) bộ đa bà địa nễ (23) tát đa yết đệ (24) tố ma bạt đê (25) tố ma bôn la tỳ (26) toa ha (27)
TADYATHÀ: NA’SANI NA’SANI _BANDHANI BANDHANI _ CCHINDA CCHINDA _ CIRI MIRI _ MAHE-HADANI _ VIRE VARE VARE _VIRI VIRI VIRE _ SUSANI _ ‘SARANI _ VARU VARINI _ VARAHÙYE _ BRAHMA-CÀRINI _ INDRA-VATI _ DHIDHIRIYANI _ NAMO MAHE’SVARAYANI _ RSÌ BHAYANI _ BHAVA JAHANI _ KALAPATINI _ BHUTÀDHIPATI SATYA-GÀTHE _ SOMA-VATI _ SOMA-PRABHE SVÀHÀ
Đãn điệt tha: hát la, hát la (1) hứ lê (2) toa ha (3)
TADYATHÀ: HARA HARA _ HILI SVÀHÀ
Đát điệt tha: yết trĩ đa(1) bát trĩ đa (2) a duệ na (3) a lê thiềm bạt nê (4) ế ca yết đả nê (5) bổ đa la trà hát nễ (6) mạt già tỳ lô hát nễ (7) hổ sa bạt để (8) hổ sa bạt để (9) bổ sa bạt để (10) bổ sa bạt để (11) hứ lê hứ lê (12) dã tha đồ gia (13) dã tha, a kỳ nễ (14) dã tha bát lam giả (15) dã tha bạt giam (16) dã tha bạt chiết lam (17) dã tha ha lý đả giam (18)
TADYATHÀ: ADITA PADITA _ AYENA ARI-BHAMJANI _ EKA-KARDANI _ PUTRA-DAHANI MARGA ABHIROHANI _ HUSA-VATI HUSA-VATI _ PUSA-
PATI _ HILI HILI _ YATHÀ VAJRAYA _YATHÀ AGNI _ YATHÀ PARANACA _ YATHÀ NÀYA _ YATHÀ VAJRAM _ YATHÀ HRDAYAM SVÀHÀ
Đức Phật bảo Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát:”Hộ Mệnh Thiện Môn Đà La Ni Thần Chú này trước đây đã được Đấng Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác ở đời quá khứ diễn nói , đã thủ hộ , phát Thệ Nguyện lớn, chân thật kiến lập. Nay Ta cũng vì lợi ích thương xót tất cả Hữu Tình , phát Thệ Nguyện lớn, chân thật kiến lập cho nên nói Đà La Ni Chú này”
Bấy giờ Đức Bạc Già Phạm phóng ánh sáng từ chặn mày (Tam Tinh) của tướng Đại Nhân . Anh sáng ấy chiếu diệu khắp các quốc độ của Phật . Do Thần Biến của Đức Phật nên tất cả Như Lai trong các quốc độ đều thấy ánh sáng này, đều từ quốc độ của mình cùng thời phát hướng về Thế Giới Tác Ha đến nơi Đức Thích Ca Mâu Ni Phật đang ngự, khen rằng:”Lành thay ! Lành thay ! Thích Ca Mâu Ni Phật liền hay vì lợi ích, ủng hộ cho tất cả các Hữu Tình nên nói Pháp Môn Đà La Ni Chú này, hay tác ánh sáng khiến được vui vẻ khiến được Chính Niệm. Chính vì thế cho nên nay Ta xưng dương tán thán” Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện vào buổi sáng sớm thọ trì, đọc tụng Cú Nghĩa của Đà La Ni Thần Chú này sẽ được 20 thứ Công Đức
Một là sẽ được chư Phật nhiếp thọ
Hai là thường được chư Phật nghĩ nhớ đến
Ba là sẽ được lìa hẳn sự chịu nghiệp trong nẻo ác
Bốn là sẽ được sống lâu, phú quý
Năm là sẽ được danh tiếng vang xa
Sáu là sẽ được uy lực dũng mãnh
Bảy là luôn thường không có bệnh, lại hay tinh tiến
Tám là thường được chư Phật che giúp
Chín là lại được chư Thiên nghĩ nhớ đến
Mười là siêng năng tu hạnh lành
Mười một là sẽ được ánh sáng, vui vẻ, chính niệm
Mười hai là sẽ được đầy đủ các tướng
Mười ba là được vô sở úy
Mười bốn là sẽ được đầy đủ Thi La (‘Sìla: Thanh Lương Giới)
Mười lăm là sẽ được thành tựu tất cả căn lành
Mười sáu là sẽ được chư Thiên thủ hộ
Mười bảy là sẽ được các Rồng thủ hộ
Mười tám là sẽ được Dược Xoa thủ hộ
Mười chín là sẽ được tất cả Thế Gian kính yêu
Hai mươi là mau chóng được A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề (Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác)
Đức Phật bảo:”Này Kim Cương Thủ ! Nay Ta nói Đà La Ni Chú này tức là nơi bí mật của các Phật Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác, là nơi thủ hộ của tất cả chư Phật” Khi ấy Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nay con cũng vì ủng hộ lợi ích chocác kẻ trai lành, người nữ thiện nên nói Đà La Ni. Nếu lại có người hay thọ trì đọc tụng Hộ Mệnh Pháp Môn Đà La Ni Chú này , vào buổi sáng sớm nên khởi đọc tụng. Thế Tôn ! Con thường ủng hộ người thuộc nhóm như vậy khiến cho không có sự não hại
Đát điệt tha: Thi mang , thi mang, thi mang, thi mang (1) chỉ chỉ chỉ chỉ (2) bà bà bà bà (3) cốt lỗ lỗ lỗ lỗ (4) thị thị thị thị (5) khất la , khất la, khất la, khất la (6) kiềm lê, kiềm lê, kiềm lê, kiềm lê (7) khiếm khiếm khiếm khiếm (8) ma ma ma 164 ma (9) mạt na, mạt na (10) khiếm na, khiếm mê (11) tát bà bát la đa lật thể ca (12) đả ha, đả ha mê (13) tát bà thiết đát lạt bà (14) bát già, bát già mê (15) tát bà a hứ đái sử noa (16) toa ha (17)
TADYATHÀ: ‘SIKHI ‘SIKHI ‘SIKHI ‘SIKHI _ CI CI CI CI _ BHA BHA BHA BHA _ RU RU RU RU _ JI JI JI JI _ GRA GRA GRA GRA _ HRI HRI HRI HRI _ HA HA HA HA _ MAMA MAMA _ MANA MANA _ HANA HANA ME _ SARVA PRATYARTHIKÀ _ DAHA DAHA ME _ SARVA ‘SATRABA _ PACA PACA ME _ SARVA AHITE’SINA SVÀHÀ
Lúc đó Đức Bạc Già Phạm khen Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát rằng:”Lành thay ! Lành thay Thiện Nam Tử ! Nay ông nói Đà La Ni Thần Chú này thành tựu tối thắng, có nghĩa lợi lón. Ta cũng vì che giúp các Hữu Tình cho nên ở trong tất cả lỗ chân lông ấy ban cho uy quang khiến được an vui”
Bấy giờ Tác Ha Thế Giới Chủ Phạm Thiên Vương (Sahampati Brahma Devaràja) liền từ chỗ ngồi đứng dậy hướng Phật chắp tay cung kính rồi bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nay con cũng vì lợi ích thủ hộ cho các kẻ trai lành, người nữ thiện nên nói Đà La Ni Thần Chú
Đát điệt tha: hứ lê (1) nhĩ lê (2) chỉ lê (3) toa ha (4) bột la hắc ma bổ lê (5) toa ha (6) bột la hắc ma sa phộc lê (7) toa ha (8) bột la hắc ma bệ (9) tô yết bệ (10) bố sáp ba tăng sa hiệt lê (11) toa ha (12)
TADYATHÀ: HILI MILI CILI SVÀHÀ _ BRAHMA PURE SVÀHÀ _ BRAHMA SVÀRE SVÀHÀ _ BRAHMA AVASU-GARBHE PU’SPA-SAMSTARE SVÀHÀ
Thế Tôn ! Câu Thần Chú này muốn vì ủng hộ lợi ích cho các kẻ trai lành với người nữ thiện. Vào buổi sáng sớm nên khởi đọc tụng
Khi ấy Thiên Đế Thích (Indra Devaràja) bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nay con cũng vì ủng hộ lợi ích cho các kẻ trai lành với người nữ thiện . Nguyện xin Đức Như Lai rũ
thương hộ niệm, nên nói Đà La Ni. Nếu lại có người hay thọ trì Hộ Mệnh Thiện Môn này thì vào lúc sáng sớm thời ghi nhớ đọc tụng
Đát điệt tha: Tỳ nễ ba la ni (1) đạn trà ma hiệt trà (2) chỉ chi chi nễ (3) cụ lê kiền đà lê (4) tát la ma ha nễ bạt chiết lam (5) đa lỗ ni (6) trú la ma lý nễ (7) chước cật la bà kê (8) xả bà lê (9) xả ma lê (10) bát la ma la đê (11) khiếm na ma ham đa la ni (12) thiêm bạt lê (13) toa ha (14)
TADYATHÀ: VINI-PARANI _DANTUMARANTE _ TITTE TITTE _ GAURI GANDHARI _ SARAMATANITA-VAJRA _TULENA _ JVALA-MALINI _ CAKRA-VÀKE _ ‘SABARE ‘SAMARE _ PRAMARDE _ HANA-MUKHE DHARANI _ ‘SAMVARE SVÀHÀ
Lúc ấy Đa Văn Thiên Vương , Trì Quốc Thiên Vương, Tăng Trưởng Thiên Vương, Xú Mục Thiên Vương chắp tay cung kính bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Chúng con cũng vì ủng hộ lợi ích cho các kẻ trai lành với người nữ thiện, nói Đà La Ni Thần Chú. Nếu lại có người hay thọ trì Hộ Mệnh Pháp Môn này vào lúc sáng sớm thời nên khởi đọc tụng.
Đát điệt tha: Bổ sáp-bệ (1) tô bổ sáp-bệ (2) đỗ ma bả lê ha lê (3) a lật gia bát la xả tất đê (4) phiến đê (5) nễ lật mục cật đê (6) măng già lệ (7) hứ la ni yết tỳ (8) tốt đổ đê (9) sa đa tỳ đê (10) toa ha (11)
TADYATHÀ: PUSPE _ SUPUSPE _ DHUMA-PARIHÀRE _ ÀRYA-PRA’SASTE ‘SÀNTI _ NIRMUKTE _ MAMGALE _ HIRANYA-GARBHE _ STUTI- STAVATI SVÀHÀ
Bấy giờ Quỷ Tử Mẫu Ha Lý Để bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nay con cũng vì ủng hộ lợi ích cho các kẻ trai lành với người nữ thiện nên nói Đà La Ni. Nếu lại có người hay thọ trì Hộ Mệnh Thần Chú Thiện Môn Đà La Ni này thì vào lúc sáng sớm nên khởi đọc tụng
Đa điệt tha: tất lê (1) tư tất lê (2) tất lê (3) tư tất lê (4) tất lê (5) ma ha tỳ tất lê (6) tất nhĩ lý tư (7) quật lỗ nê (8) quật lỗ nê (9) quật lỗ nê (10) ma ha quật lỗ nê phổ (11) toa ha (12)
TADYATHÀ:SILI ‘SISILI _ SILI ‘SISILI _ MAHÀBHISILI _ SIME LISE _ GURUNI GURUNI GURUNI _ MAHÀ-GURUNIPHU SVÀHÀ
Khi ấy Ngũ Đại Sơn Dược Xoa Quân Tướng chắp tay cung kính bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nay con cũng vì ủng hộ lợi ích cho các kẻ trai lành, người nữ thiện nên nói Đà La Ni Thần Chú. Nếu lại có người hay thọ trì Hộ Mệnh Thần Chú Pháp Môn Đà La Ni này thì vào lúc sáng sớm nên khởi đọc tụng
Đát điệt tha: At xỉ phổ (1) bạt xỉ phổ (2) suy xỉ phổ (3) củ suy xỉ phổ (4) ma suy xỉ phổ (5) hạt la môn trà khiếm đê phổ (6) thất lê phổ (7) bằng kỳ phổ (8) ma giả lê phổ (9) toa ha (10)
TADYATHÀ:ATTEPHU _ PATTEPHU_ NATTEPHU_ GUNATTEPHU _ MANATTEPHU _ HARAMUNTA HATAPHU _ _ ‘SRIPHU _ BHAMGEBHU _ MAMGALEPHU SVÀHÀ
Lúc ấy Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nay con cũng vì ủng hộ lợi ích cho các kẻ trai lành, người nữ thiện nên xót thương nhiếp thọ đều
khiến cho an ổn được các việc tốt lành. Con sẽ kết Giới khiến cho lìa dao, gậy, tiêu các ác độc. Nếu lại có người hay thọ trì Hộ Mệnh Pháp Môn này thì vào lúc sáng sớm nên khởi đọc tụng
Đát điệt tha: Hát lý bạt chiết lê (1) hát lý bạt chiết lê (2) hứ hứ hứ hứ (3) tỳ (4) tỳ tư (5) ma hà tỳ tư phổ (6) toa ha (7)
TADYATHÀ: HÀRE VAJRA _ HÀRE VAJRA _ HIHI HIHI _ BHISI BHISI _ MAHÀ-BHISIPHU SVÀHÀ
Bấy giờ Đại Tự Tại Thiên Chủ (Mahe’svara Devapati) chắp tay cung kính bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nay con cũng vì ủng hộ lợi ích cho các kẻ trai lành, người nữ 166 thiện nên nói Đà La Ni Thần Chú. Nếu lại có người hay thọ trì Hộ Mệnh Thiện Môn này thì vào lúc sáng sớm nên khởi đọc tụng
Đát điệt tha: hổ lô , hổ lô, hổ lô, hổ lô (1) lỗ lỗ lỗ lỗ lỗ lỗ (2) tát bà bộ đa bôn la để sát đả nam ca lộ nhĩ (3) toa ha (4)
TADYATHÀ:HULU HULU HULU HULU _ LULU LULU LULU _ SARVA-BHUTA PRATI-SÀDHANAM KARA-UMI SVÀHÀ
Khi ấy Đồng Tử Quân Tướng hướng Phật chắp tay cung kính rồi đứng thẳng bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nay con cũng vì ủng hộ lợi ích cho các kẻ trai lành, người nữthiện nên nói Đà La Ni. Nếu lại có người hay thọ trì Hộ Mệnh Thần Chú Đà La Ni Pháp Môn này thì vào lúc sáng sớm, thanh khiết thân của mình rồi nên khởi đọc tụng
Đát điệt tha: hứ lê (1) hứ lê (2) hứ lê (3) lê (4) lê (5) lê (6) lê (7) lê (8) lê (9) tát bà bộ đa bôn la để sát tha nam, ca lộ nhĩ (10) toa ha (11)
TADYATHÀ: HILI HILI HILI _ LILI LILI LILI _ SARVA-BHUTA PRATI- SÀDHANAM KARA-UMI SVÀHÀ
Lúc đó Nguyệt Quang Thiên Tử (Candraprabha Devaputra) chắp tay cung kính bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nay con cũng vì ủng hộ lợi ích cho các kẻ trai lành, người nữ thiện nên nói Đà La Ni. Nếu lại có người hay thọ trì Hộ Mệnh Pháp Môn Đà La Ni Thần Chú này thì vào lúc sáng sớm nên khởi đọc tụng
Đát điệt tha: ứng kỳ kỳ (1) bằng kỳ (2) chướng kỳ (3) hứ nễ (4) địa địa (5) địa địa (6) chỉ chỉ phổ (7) toa ha (8)
TADYATHÀ:AMGE _ BHAMGE _ CAMGE _ HINI _ DHIDHI DHIDHI _ CICIPHU SVÀHÀ
Bấy giờ Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát bạch Phật rằng:’Thế Tôn ! Nay con cũng vì ủng hộ lợi ích cho các kẻ trai lành, người nữ thiện nên nói Đà La Ni. Nếu lại có người hay thọ trì Hộ Mệnh Pháp Môn này thì vào lúc sáng sớm nên khởi đọc tụng
Đát điệt tha: khiếm đê (1) tỳ khiếm đê (2) nễ khiếm đê (3) tô khiếm đê (4) tát bà bôn la đa lật thể kê (5) bôn la đa nhĩ đát lê (6) du đế (7) mục cật đê (8) tỳ ma lê (9) niết ma lê (10) bôn la bà sa lê (11) bôn la bà ca lê (12) bôn la bà ca lê phổ (13) toa ha (14)
TADYATHÀ: HATE VIHATE NIHATE SUHATE _ SARVA-PRATYÀRIKÀ _ PRATYA-MITRA-‘SUDDHE _ MUKTE _ VIMALE NIRMALE _ PRABHA-SVÀRE _ PRABHA-KARE _ PRABHA-KAREPHU SVÀHÀ
Khi ấy Từ Thị Bồ Tát bạch Phật rằng:’Thế Tôn ! Nay con cũng vì ủng hộ lợi ích cho các kẻ trai lành, người nữ thiện nên nói Đà La Ni. Nếu lại có người hay thọ trì Hộ Mệnh Pháp Môn này thì vào lúc sáng sớm nên khởi đọc tụng
Ðát điệt tha: thập phiệt lê (1) thập phiệt lê (2) ma ha thập phiệt lê (3) thập phiệt lê (4) thập phiệt lý nễ (5) ổ cật đê (6) mục cật đê (7) thiểm mê (8) bôn la thiểm mê (9) ma ha thiểm mê (10) thiểm nhĩ (11) tam ma đề (12) ma ha tam ma đề (13) tam ma bát đê (14) ma ha tam ma bát đê (15) thập phiệt lê (16) ma ha thập phiệt lê (17) thập phiệt lam bà mê phổ (18) toa ha (19)
TADYATHÀ: JVALE JVALE _ MAHÀ-JVALA _ JVALE JVALINI _ UKKE MUKKE _’SAME PRA’SAME MAHÀ-‘SAME _ ‘SAME _ SAMÀDHI MAHÀ-SAMÀDHI _ SAMÀPATTI MAHÀ- SAMÀPATTI _ JVALE MAHÀ-JVALE _ JVALAPAMEPHU SVÀHÀ
Lúc đó Tuyết Sơn Đại Dược Xoa Quân Tướng chắp tay cung kính rồi bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nay con cũng vì ủng hộ lợi ích cho các kẻ trai lành, người nữ thiện nên nói Đà La Ni Thần Chú . Nếu lại có người hay thọ trì Hộ Mệnh Pháp Môn này thì vào lúc sáng sớm nên khởi đọc tụng
Đát điệt tha: ổ thiền bà lê (1) thiền bà lê (2) bôn la thiền bà lê (3) tỳ bạt đê (4) mãng suy duệ (5) tam ma đề (6) ma ha tam ma đề (7) tam ma bát đê (8) ma ha tam ma bát đê (9) nễ lê (10) nễ lê (11) nễ la kế thế (12) kế thủy nễ (13) củ lệ (14) củ lệ (15) ma ha củ lệ (16) nễ la củ lệ (17) tất đề (18) tất đà ma nộ la thê (19) át xỉ (20) bạt xỉ (21) suy xỉ (22) câu suy xỉ (23) tam mạn đê (24) bà la củ chế (25) đạn đê (26) nễ la kế thế (27) củ lệ (28) ma ha củ lệ (29) ni la kiến đê (30) thường cụ lê (31) hổ thế (32) mưu hổ thế (33) bà la thường cụ lê (34) phả la củ chế (35) phả la muộn chế phổ (36) toa ha (37)
TADYATHÀ: UDUMBARE _ DUMBARE _ PRADUMBARE _ VYÀBARDE _ ÀNGHE _ SAMÀDHI MAHÀ-SAMÀDHI _ SAMÀPATTI MAHÀ-SAMÀPATTI _ NÌLE NÌLE _ NÌLAKE’SE _ KE’SENI _ KULE KULE MAHÀ-KULE _ NÌLA-KULE _ SIDDHI _ SIDDHA-MANORATHE _ ATTE PATTE NATTE _ SAMANTA-BHAVA KU’SE _ DÀNTE NÌLA-KE’SE _ KULE MAHÀ-KULE _ NÌLAKANTHE _ JAMKULE _ HU’SE MÙHU’SE PRAJAMKULE _ PRAKUTI PRAMUNTIPHU SVÀHÀ
Bấy giờ Thất Sơn Đại Dược Xoa Quân Tướng chắp tay cung kính bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nay con cũng vì ủng hộ lợi ích cho các kẻ trai lành, người nữ thiện nên nói Đà La Ni. Nếu lại có người hay thọ trì Hộ Mệnh Pháp Môn Đà La Ni Chú này thì vào lúc sáng sớm nên khởi đọc tụng
Đát điệt tha: A ma lê (1) tỳ ma lê (2) nễ ma lê (3) măng già lệ (4) hứ la nhược yết tỳ (5) tát bà a lạt tha, sa đả nễ (6) ma ca thất giả nễ (7) dữu cật đê (8) Tỳ la thệ (9) yết xỉ (10) kế chu kiếm bà lê (11) bột la hát mê (12) bột la hát ma sa phộc lê (13) bột la hát ma tất đề (14) tất đà ma nộ la thế phổ (15) toa ha (16)
TADYATHÀ: AMALE VIMALE NIRMALE MAMGALE _ HIRANYA-GARBHE _ SARVA-ARTHA SÀDHANE _ KAMA’SCINI-YUKTE _ VIRAJE _ KUTA KUTA _ KAMA-BALE _ BRAHME BRAHMA-SVÀRE _ BRAHMA SIDDHE _ SIDDHA MANORATHE PHU SVÀHÀ
Khi ấy Kim Cương Thương Yết La Đại Thiên Nữ chắp tay cung kính bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nay con cũng vì ủng hộ lợi ích, thương xót nhiếp thọ các kẻ trai lành với người nữ thiện mà nói câu Đà La Ni đều khiến cho an ổn được các việc tốt lành. 168 Nếu lại có người hay thọ trì Pháp Môn Hộ Mệnh Thần Chú này thì vào lúc sáng sớm nên khởi đọc tụng.
Đát điệt tha: bạt chiết lệ (1) bạt chiết la (2) bạt chiết lệ (3) ma ha bạt chiết lệ (4) bạt chiết la ma đê (5) bột đà bạt chiết lệ (6) bột đà a địa sắt xỉ đa, bạt chiết lệ (7) ô bột đề (8) nễ bột đề (9) tam bột đề (10) bà hổ bột đề (11) tỳ thủy sắt tra, bột đề (15) bột đề (16) bột đề (17) đề thắng già nhĩ nễ (18) thiềm già mê (19) a la mê (20) để la mê (21) để lê (22) để lê (23) để lê (24) mạt kỳ (25) ma khiện đa già nhĩ nê phổ (26) toa ha (27)
TADYATHÀ: VAJRE VAJRA _ VAJRE MAHÀ-VAJRE_ VAJRA-MATI _ BUDDHA-VAJRE _ BUDDHA ADHISTHITA VAJRE _ SUBUDDHE NIBUDDHE SAMBUDDHE _ BAHU-BUDDHE _ VI’SISTA-BUDDHE _ BUDDHE BUDDHE _ NISAMGRA-MANI _ SAMGRA ME _ ALA ME _ TILA ME _ TILI TILI TILI _ MARGE ‘SÀNTE GÀMINI PHU SVÀHÀ
Lúc đó Kim Cương Quân Bồ Tát Ma Ha Tát chắp tay cung kính bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nay con cũng vì ủng hộ lợi ích cho các kẻ trai lành, người nữ thiện nên nói câu Đà La Ni. Nếu lại có người hay thọ trì Hộ Mệnh Thần Chú Pháp Môn Đà La Ni này thì vào lúc sáng sớm nên khởi đọc tụng
Đát điệt tha: hứ hứ , bạt chiết la (1) hứ hứ bạt chiết la (2) hề hề bạt chiết la (3) dã bà chỉ lợi chỉ lợi , bạt chiết la (4) toa ha (5)
TADYATHÀ: HIHI VAJRE _ HIHI VAJRA _ HIHI VAJRA _ YAVA KIRI KIRI VAJRA SVÀHÀ
Đát điệt tha: An trà lê (1) bát trà lê (2) thất phệ đê (3) bát trà la bà tư nễ (4) khẩn suy lệ (5) ca la trà (6) kê dữu lệ (7) y khiếm bột đề (8) đát đa la bột đề (9) bộ thệ (10) bộ chiêm già mê (11) bộ chiêm già mê (12) bộ chiêm già bạt để (13) bà duệ (14) bà dạng kỳ (15) bà dã khất la bạt đê (16) tỵ nễ (18) thủy lê (19) bả thê (20) thi ma bả thê (21) a địa đa bả thê (22) đế thệ (23) đế thệ bả thê (24) a ca xa bả thê phổ (25) toa ha (26)
TADYATHÀ: ANDARE PANDARE _ ‘SVETE-PANDARA-VASINI _ KINNARE KARÀTE _ KEYURE _ IHÀ-BUDDHE _ TADVA-BUDDHE _ BHUJE BHUJAMO GAME _ BHUJAM-GAMA-PATI _ BHAYE BHAYÀMGE _ BHAYAM-GARA-PATI _ VINÌ-‘SRÌ-PATI _ ‘SIMA-PATI _ ÀDITYA-PRATHE _ TEJE TEJE-VATI _ ÀKÀ’SA-PATI PHU SVÀHÀ
Bấy giờ Kim Cương Sứ Giả chắp tay cung kính bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nay con cũng vì ủng hộ lợi ích cho các kẻ trai lành với người nữ thiện đều khiến tiêu diệt hết thảy các chướng. Nếu lại có người hay thọ trì Hộ Mệnh Pháp Môn Đà La Ni Thần Chú này thì vào lúc sáng sớm nên khởi đọc tụng
Đát điệt tha: củ xỉ (1) củ xỉ (2) củ trưng nễ (3) củ tra , củ tra lệ (4) toa ha (5) _ Nễ lê (6) nễ lê (7) nễ la kế thế (8) toa ha (9)_ Tý đê (10) tý đa (11) tý đa kế thế (12) toa ha(13) _ Lô hứ đê (14) lô hứ đê (15) lô hứ đa kế thế (16) toa ha (17) _ A bà đả đê (18) a bà đả đê (19) a bà đả đa kế thế (20) toa ha (21) _ Mạn thị sắt xỉ (22) mạn thị 169 sắt xỉ (23) mạn thị sắt tra kế thế (24) toa ha (25) _ Chước cật lệ (26) chước cật lệ (27) chước cật la (28) chước cật lệ (29) bạt chiết la, chước cật lệ (30) toa ha (31)
TADYATHÀ: KUTE KUTE KUTENI _ KUTA KUTARE SVÀHÀ _ NÌLE NÌLE NÌLAKE’SE SVÀHÀ _ PRITE PRITA PRITAKE’SE SVÀHÀ _ LOHITE LOHITE LOHITA-KE’SE SVÀHÀ _ AVADÀDE AVADÀDE AVADÀDA-KE’SE SVÀHÀ _ MANJISTHE MANJISTHE MANJISTHA-KE’SE SVÀHÀ _ CAKRE CAKRE _ CAKRA CAKRE _ VAJRA-CAKRE SVÀHÀ
Khi ấy Đức Bạc Già Phạm Thích Ca Mâu Ni Phật liền duỗi bàn tay phải , cánh tay màu vàng ròng khen nhóm Thích, Phạm, bốn vị Thiên Vương rằng:”Lành thay ! Lành thay ! Chư Thiên các ông thương xót thủ hộ tất cả Hữu Tình. Ta dùng uy thần ủng hộ cho ông nói Đà La Ni Chú này” Lúc đó Đức Bạc Già Phạm lại bảo Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát rằng:”Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện hay thọ trì Hộ Mệnh Pháp Môn Đà La Ni Thần Chú này thì vào lúc sáng sớm nên thọ trì đọc tụng, ắt người đó sẽ được sự ủng hộ của tất cả chư Phật với các Bồ Tát cho đến tất cả hàng Trời, Rồng Dược Xoa, A Tố Lạc, Yết Lộ Trà, Khẩn Nại Lạc, Mạc Hô Lạc Già ủng hộ. Khi Đức Bạc Già Phạm nói Kinh này xong thời Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát với hàng Thích , Phạm, Hộ Thế, Trời, Người, A Tố Lạc, Kiền Thát Phộc…, tất cả Đại Hội nghe điều Phật nói đều vui vẻ phụng hành
Subscribe to:
Posts (Atom)